NGÀY
CUỐI CỦA MỸ Ở SÀI GÒN
Nguyễn Thành Trí
“Last
Days in Vietnam” là cái tựa của một cuốn phim tài liệu thời sự dài 98 phút nói
về “Những Ngày Cuối Ở Việt Nam” do
hãng phim American Experience Films/PBS thực hiện và Cô Rory Kennedy làm giám
đốc sản xuất. Cô Kennedy đã không đề cập tới sự quan hệ của gia đình dòng họ
nhà cô với nước Việt Nam khi người bác của cô là Tổng Thống John F. Kennedy
người đã từng gia tăng sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đã bị ám sát trong năm
1963, và người cha ruột của cô là Robert K. Kennedy cũng đã bị ám sát vào năm
1968 trong lúc đang đi vận động tranh cử tổng thống Mỹ với một “lập trường
chống-chiến-tranh Việt Nam”. Cô Rory Kennedy là con gái út của Ông Robert K.
Kennedy, Bộ Trưởng Tư Pháp Mỹ trong những năm 1961-1964.
Phải có “Những Ngày Đầu Của
Mỹ Ở Sài Gòn…” rồi mới có “Những Ngày Cuối Của Mỹ Ở Sài Gòn…”, nhưng vì có sự
giới hạn nào đó và phải có chủ ý, nên Cô Kennedy chỉ bắt đầu cuốn phim tài liệu
thời sự này vào thời gian tháng Giêng 1973 khi Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 đã
được bốn bên chủ yếu tham chiến là bốn chính phủ VNCH, VC-CMLTCHMNVN, VNDCCH,
và Mỹ đồng thuận ký kết chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở cả hai miền Bắc-Nam
Việt Nam, và cả khu vực Đông Dương nói chung. Sự tranh chấp quyền lực lãnh đạo
xã hội miền Nam Việt Nam và có các cuộc xung đột vũ trang mức độ thấp ở miền
nam đã nhen nhúm ngay sau ngày ngưng bắn 1954.
Bộ máy tuyên truyền của cộng sản quốc tế
đã biến cuộc Nội-Chiến Việt Nam thành một cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ; các đơn vị chính quy CS Bắc Việt hay du kích VC miền Nam trở thành các lực
lượng chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự trực tiếp can thiệp quân sự
của Mỹ vào cả hai miền Bắc-Nam Việt Nam, và ngay trên một phần lãnh thổ của Lào
và Cam Bốt cũng chỉ để ngăn chặn sức bành trướng của quốc tế cộng sản Liên
Sô-Trung Cộng trên mặt trận Đông Nam Á mà Cộng Sản Việt Nam ở hai miền Nam-Bắc
chính là những tên-lính-xung-kích-cộng-sản-quốc-tế cần phải bị vô hiệu hoá.
Lập trường Chống-Cộng của TT Nixon rất
quyết liệt, dứt khoát được chứng minh qua hành động cứng rắn bằng cuộc “Ném Bom
Giáng Sinh 1972” để buộc Cộng Sản Việt Nam phải trở lại bàn hội nghị và đồng
thuận ký kết hiệp định hoà bình, giải quyết vấn đề tranh chấp quyền lực lãnh
đạo miền Nam Việt Nam bằng một cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát, nhất là
CSVN phải đồng ý duy trì TT Nguyễn Văn Thiệu ở vị trí lãnh đạo chính phủ VNCH
cho tới ngày tổng tuyển cử. Có nhiều người Việt Quốc Gia đã oán trách, khinh miệt bản Hiệp
Định Hoà Bình Paris 1973 không giá trị bằng một “miếng-giấy-chùi-đít”, vì có lẽ
vào lúc ký kết hiệp định và có lẽ cho tới bây giờ họ đã và đang không được đọc
hay không đọc được nội dung của hiệp định hoà bình này, nên họ đã không hiểu
được cũng như không hiểu hết tầm mức quan trọng và ảnh hưởng sâu rộng mạnh mẽ
của nó đối với người Việt Nam trong cả nước.
Cũng có lẽ họ đã và đang thực sự không
biết rằng trên thực tế ở Việt Nam vào lúc có hiệp định thì thực sự các bên Việt
Nam đã không có thiện chí và không thành tâm thực thi hiệp định. Hiệp Định Hoà
Bình Paris 1973 được ký kết đúng theo lập trường chống cộng của TT Thiệu là
“hai nước Việt Nam, VNCH và VNDCCH có ranh giới là vĩ tuyến 17 kẻm theo một
vùng phi quân sự” tương tự như hai nước Nam Hàn và Bắc Hàn. TT Thiệu vẫn lãnh
đạo chính phủ VNCH để hiệp thương với chính phủ VC-CMLTCHMNVN cho tới ngày tổ
chức một cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát để nhân dân miền Nam Việt Nam
thực hiện quyền tự quyết chọn lựa chính thể giải quyết vấn đề tranh chấp quyền
lực lãnh đạo miền Nam Việt Nam.
Sau
khi có chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam do kết quả của cuộc tổng tuyển cử, thì
chính phủ miền Nam Việt Nam cho dù là Cộng Hoà hay Cộng Sản cũng do nhân dân
miền Nam Việt Nam tự quyết định bầu chọn, và rồi chính phủ mới này hiệp thương
với chính phủ CS VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam để giải quyết vấn đề thống nhất đất
nước bằng các phương tiện ôn hoà. Vào lúc đó Nhân Dân Việt Nam có quyền
Tự-Quyết tự do chọn lựa chính thể Độc-Tài-Cộng-Sản hay Dân-Chủ-Tự-Do để thống
nhất nước Việt Nam, như hai nước Đông Đức và Tây Đức vào năm 1990 tiến hành
hiệp thương thống nhất nước Đức trong một hoàn cảnh hoà bình. CSVN nói chung ở hai miền Nam-Bắc VN
đều rất e ngại lập trường chống-cộng quyết liệt và hành động cứng rắn của TT
Nixon, họ lo sợ tính cách trả đủa trừng phạt nặng nề của TT Nixon nếu họ vi
phạm hiệp định.
Quả thật ở cả ba nước Việt-Miên-Lào đã
có được những ngày tháng bình yên sau khi hiệp định hoà bình có hiệu lực. Cho
tới lúc có vụ-tai-tiếng-Watergate và vì chuyện xấu này đã khiến cho TT Nixon
phải từ chức. CSVN đã lợi dụng cơ hội này để gia tăng các hoạt động quân sự vi
phạm hiệp định hoà bình, vì họ tin rằng không còn TT Nixon thì họ cũng không lo
sợ có ai khác trong chính phủ Mỹ để ý trả đủa trừng phạt họ.
Đã qua bốn mươi năm
(1975-2015) mà Cô Kennedy còn nhắc lại những Ngày Cuối Của Mỹ Ở Sài Gòn bằng
nhiều hình ảnh dân chúng miền Nam Việt Nam hoảng sợ chạy lánh nạn Cộng Sản Việt
Nam. Phải nói cho đúng là “Dân Chúng Miền Nam Việt Nam Hoảng Sợ Chạy Trốn Cộng
Sản Việt Nam!”, vì thật rõ ràng không phải Đồng Minh Mỹ tháo chạy bởi đã thua
trận như những cách nói hàm hồ của luận điệu tuyên truyền xảo quyệt của cộng
sản quốc tế và CSVN để làm nhục Chính Phủ Mỹ. Trong vòng sáu mươi ngày sau khi
Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 được ký kết thì toàn bộ các đơn vị quân sự Đồng
Minh, Mỹ và Bộ Chỉ Huy MACV trở về nước Mỹ trong danh dự bởi vì họ đã làm xong
nhiệm vụ chặn đứng cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt để bảo vệ tự do cho nhân
dân miền Nam Việt Nam được thực hiện quyền Dân-Tộc-Tự-Quyết tự do chọn lựa
chính thể.
Luận điệu tuyên truyền gian trá của cộng
sản là người Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam để biến miền nam thành một thuộc địa
kiểu mới, hoặc là trở nên Tiểu Bang thứ 51 của Đế Quốc Mỹ. Cho dù Cộng Sản Bắc
Việt và VC Miền Nam đã quá gian manh, quỷ quyệt, nhưng chính họ không nghĩ tới
việc họ cố ý vi phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973, cưỡng chiếm miền Nam Việt
Nam, loại bỏ chính phủ VNCH, lại là một cơ-hội-tốt cho người Mỹ rửa sạch tiếng
xấu là đế quốc xâm lược miền Nam Việt Nam. Cho tới ngày 30/4/1975 thì nhân dân
miền Nam Việt Nam và nhân dân miền Bắc Việt Nam cũng như nhân dân các nước khác
đã biết rất rõ ai chính là kẻ xâm lăng miền Nam Việt Nam. Thật quá bất hạnh cho
nhân dân miền Nam Việt Nam khi không được chính thức bầu cử tự do trong một
cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát thì họ cũng có thể “bầu-cử-bằng-chân”
của họ từ-chối-cộng-sản và cũng có quốc tế quan sát nhận thấy
“kết-quả-không-cộng-sản” trong sự tự do chọn lựa của nhân dân miền Nam Việt
Nam.
Ngày 30/4/1975 cũng chính là
ngày Chính Phủ Mỹ đã triệt để tôn trọng Chủ Quyền của Chính Phủ VNCH, nghiêm
chỉnh làm đúng theo lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu là tất cả
người Mỹ phải đi khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ. Như vậy
thì Đồng Minh Mỹ đã không phải bị thua trận mà tháo chạy; ngược lại, Đồng Minh
Mỹ đã phải vội vã ra đi vì bị chính Đồng Minh VNCH
“đuổi-nhà-không-cho-ở-chung-nữa”. Thường thường người trí thức tự do tây phương
hay tự nói về những thành công hay thất bại, những ủng hộ thuận lợi hoặc áp lực
trở ngại, để phân tích tìm hiểu rút kinh nghiệm cho chính mình và cho người
khác; còn đối với ông Vũ Văn Mẫu thì có vẻ
“cam-lòng-chịu-đựng-sự-phũ-phàng-nhục-nhã” khi chính ông Mẫu đã phải giữ im
lặng cho tới chết.
Một cách rất đáng ngạc nhiên là chẳng
những không có một tên lãnh đạo CSVN nào trên bình diện chính trị và quân sự,
mà cũng không còn có một tên trí thức cộng sản ở trong đảng CSVN và trí thức VN
ở ngoài đảng trên bình diện lịch sử, có đủ can đảm và lòng tự-trọng-trí-thức để
nói tới chuyện ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu đã “đuổi-nhà” ông Đại Sứ Mỹ trong
thời hạn một ngày để cho họ, CSVN, cưỡng chiếm toàn bộ lãnh thổ VNCH một cách
quá dễ dàng. Cũng có thể CSVN đã lường gạt cả hai ông tổng thống và thủ tướng
cuối cùng của VNCH một cách quá dễ dàng trong những ngày sau cùng của một chế
độ cộng hòa ở miền Nam Việt Nam tự do. Cũng có thể vì ở trong một chế độ cộng
sản không có tự do ở nước Việt Nam nên họ, những người trí thức cộng sản cũng
như không cộng sản, cũng không có lòng tự-trọng-trí-thức để nói về một sự thật,
một sự kiện lịch sử quan trọng ở Việt Nam đã xảy ra trong ngày 29/4/1975.
Quả thật chính vì một lời yêu
cầu của ông Thủ Tướng VNCH đã tạo ra một hình ảnh của ông Đại Sứ Mỹ với một lá
cờ Mỹ xếp gọn theo hình tam giác được ôm trong tay ông ta và vội vã cùng với
vài người lính Mỹ bảo vệ cho ông bước lên một chiếc trực thăng TQLC Mỹ bay ra
khỏi Sài Gòn. Họ là những người Mỹ sau cùng phải vẩy tay chào từ giả Sài Gòn
vào lúc 4 giờ rưỡi sáng sớm ngày 30/4/1975. Đối với ông Đại Sứ Mỹ thì luôn luôn
phải tôn trọng và bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, và Tình Người. Tổ Quốc
là lá cờ Mỹ ông đang ôm trong tay. Danh Dự là khi “được yêu cầu ra đi thì sẵn
sàng ra đi!” Nếu ông Thủ Tướng VNCH đã không “đuổi người Mỹ phải đi khỏi miền
Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ” thì biến chuyển tình hình ở Sài Gòn
vào ngày cuối tháng Tư và những ngày đầu tháng Năm 1975 chắc có lẽ đã khác hơn
là cuộc cưỡng chiếm lãnh thổ VNCH một cách quá dễ dàng.
Rất nhiều người Việt Nam đã không biết,
hoặc đã bị tuyên truyền cộng sản nên hiểu lầm rằng “Đồng Minh Mỹ tháo chạy”,
hoặc họ đã có biết nhưng họ lại cố quên rồi chuyện “Ông-Thủ-Tướng-Một-Ngày” chỉ
một ngày 29/4/1975 làm thủ tướng VNCH, nhưng ông thủ tướng này lại có đủ thẫm
quyền ra lệnh cho Đồng Minh Mỹ phải “tháo-chạy” trong thời hạn chỉ một ngày.
Quả thật rõ ràng đây là một thứ “định-mệnh-cay-nghiệt” dành cho ông Đại Sứ Mỹ!
Ông Thủ Tướng VNCH Một Ngày đúng là khắc-tinh của ông Đại Sứ Mỹ đã hơn một ngàn
ngày làm việc và sống tại Sài Gòn! Vấn đề tôn trọng danh dự và mạng sống của
chính mình là một chuyện quan trọng, nhưng Trách Nhiệm và Tình Người lại là một
chuyện khác quan trọng hơn nhiều nữa.
Vì vậy ông Đại Sứ Mỹ đã từ
chối lên chiếc trực thăng TQLC đầu tiên bay đi. Trong thời hạn 24 giờ đồng hồ
của ngày 29/4/1975 thì ông đại sứ đã quyết định ở lại cho tới những phút sau
cùng để ông chắc chắn rằng tất cả công-dân-Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã ra đi an
toàn, và nhất là những người Việt Nam, có lẽ có gần ba ngàn người đã vào được
“lãnh địa của toà Đại Sứ Mỹ” có nghĩa là họ “vào-được-cái-nhà-của-ông-đại-sứ”,
và họ đã được 75 chiếc trực thăng TQLC Mỹ đưa đi ra những chiếc tàu HQ Mỹ ở
ngoài khơi Biển Đông. Nếu ông Đại Sứ Mỹ có một thứ “quyền-năng-đặc-biệt” như
Siêu-Nhân có thể nắm giữ trái đất lại không cho xoay tròn hết một ngày để thời
gian ngừng lại, thì ông đã di tản hết những người Việt Nam ngồi chờ chuyến trực
thăng TQLC Mỹ bay đi. Khi hiểu cái giới hạn khả năng của ông đại sứ trong thời
hạn một ngày, thì người ta hiểu được cái ý nghĩa sâu sắc của một tấm hình chụp
chiếc trực thăng đậu trên nóc toà đại sứ và một đoàn người tiếp theo nhau leo
cầu thang để vào bên trong chiếc máy bay di tản.
Quả thật, “Những Ngày Cuối Ở
Việt Nam” đúng ra là của ông Graham Martin, Đại Sứ Mỹ ở nước VNCH. Ông Graham
Martin đã hết sức giúp đở di tản rất nhiều người miền Nam Việt Nam lánh nạn
Cộng Sản Việt Nam. Ông Đại Sứ Mỹ là người đại diện cho nước Mỹ trong quan hệ
ngoại giao với nước VNCH. Ông đại sứ đã phải giả từ Sài Gòn, thủ đô của nước
VNCH, trong thời hạn một ngày dựa trên lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH. Ông
đại sứ đã đi khỏi nước VNCH vì Tổ Quốc, Danh Dự, và Trách Nhiệm của ông. Sự ra
đi vội vàng của ông đại sứ là vì cái thời hạn 24 giờ đồng hồ phải chắc chắn
rằng tất cả những người ra đi được an toàn; tuy nhiên, sự ra đi quá nhiều mệt
mõi này, vì cho tới 4 giờ rưỡi sáng ngày 30/4/1975 ông đại sứ mới lên chuyến
bay trực thăng cuối cùng rời khỏi Sài Gòn, cũng đã gián tiếp có thể làm phục
hồi danh dự cho MACV, một phái bộ quân sự cũng giống như ông đại sứ luôn luôn
tôn trọng tôn chỉ hành động bảo vệ “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và Tình
Người”.
Phái bộ MACV đã an toàn trở về nước Mỹ
trong danh dự sau khi hiệp định hòa bình đã được ký kết. Còn hơn thế nữa, sự ra
đi của ông đại sứ chẳng những phục hồi danh dự cho MACV, mà còn có thể gián
tiếp phục hồi danh dự cho Quân Lực VNCH, một quân đội cộng hoà đã từng được sự
trợ giúp của MACV để trở nên một quân đội đứng hàng đầu ở Đông Nam Á. Quân Lực
VNCH đã bị rối loạn hàng ngũ bởi vì những quyết định sai lầm nghiêm trọng của
vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH và có một số ít sĩ quan cao cấp đã phạm lỗi tự ý bỏ đơn
vị ra đi trước để được an toàn cá nhân, nhưng cả một tập thể QLVNCH không để
mất danh dự. Cả hai, MACV và QLVNCH, đã không để mất Danh Dự của mình bởi vì
sau hiệp định hoà bình đã không thực sự giao chiến với địch quân cộng sản.
Người ta nhận thấy một cách
khách quan là “chính hai vị tổng tư lệnh cuối cùng của QLVNCH đã phạm sai lầm
làm tan rã hàng ngũ quân đội sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực.” Có một nghi-án
của Quân Sử VNCH là “Ai đã bày-mưu-hiến-kế cho TT Thiệu quyết định
“Di-Tản-Chiến-Thuật” bỏ trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật. Một cách cụ thể là
TT Thiệu đã “gián tiếp giao cả Miền Trung Việt Nam cho CSVN!” Một bằng chứng
điển hình là vào ngày 2/4/1975 các cấp chỉ huy đơn vị VNCH ở thành phố Nha
Trang, tỉnh Khánh Hoà đã nhận lệnh của “Người Nào” để “di-tản-chiến-thuật” bỏ
trống thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hoà, mặc dù đã không có một cuộc tấn
công lớn nhỏ nào của bộ đội CS Bắc Việt. Cho tới ba ngày sau, 5/4/1975, chỉ có
vài đơn vị nhỏ của bộ đội CS Bắc Việt với VC địa phương tới tiếp quản thành phố
này.
Sự kiện “Di-Tản-Chiến-Thuật” bỏ trống
Vùng I và Vùng II Chiến Thuật đã được ghi lại trong các bản báo cáo của ông
William Colby, Trưởng Cơ Quan CIA và của ông Đại Tướng Fred Weyand,Tham Mưu
Trưởng Lục Quân Mỹ và là Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, sau khi trở lại miền Nam VN
quan sát thực tế tình hình để tường trình lên TT Gerald Ford. Ông TT Thiệu đã
yêu cầu giải quyết các đơn vị CS Bắc Việt hiện ở dưới vĩ tuyến 17 bằng những
chuyến bay B52, nhưng Tướng Weyand và ông Đại Sứ Martin đã không đồng ý áp dụng
chương trình B52. Sau khi phân tích tình hình, chỉ có ông Đại Tá William LeGro,
Trưởng Tình Báo Tuỳ Viên Quốc Phòng của toà đại sứ là cùng quan điểm với TT
Thiệu yêu cầu áp dụng chương trình B52 trên các mục tiêu chỉ định CS Bắc Việt.
Tuy nhiên, người Mỹ sẽ “hành-động-tự-vệ” chỉ khi nào bộ đội CS Bắc Việt hoặc VC
địa phương đánh vào toà đại sứ hay các văn phòng lãnh sự của Mỹ. Vì vậy không
thể “vô-cớ” áp dụng chương trình B52 theo yêu cầu của TT Thiệu. Đấy là lần cuối
của Đại Tướng Fred Weyand, Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, đã trở lại với VNCH ở miền
Nam Việt Nam, trước khi đi vào lịch sử chiến tranh hải ngoại của Quân Đội Mỹ và
quân-sử của QLVNCH.
Quân-sử của QLVNCH chắc chắn
phải ghi lại sự kiện TT Thiệu đã quyết định “di-tản-chiến-thuật” bỏ trống Vùng
I và Vùng II Chiến Thuật để cho CSVN chiếm lấy cả miền Trung Việt Nam một cách
quá dễ dàng! Hơn nữa, cuộc “Di-Tản-Chiến-Thuật” của TT Thiệu cũng trực tiếp gây
khó khăn cho TT Ford trước Quốc Hội Mỹ trong việc yêu cầu quốc hội chấp thuận
tài khoản quân viện cho VNCH, mà việc yêu cầu này phải nói tránh-tiếng là
“tài-khoản-viện-trợ-nhân-đạo-cho-người-tỵ-nạn-cộng-sản” ; bởi vì Quốc Hội Mỹ đã
biết rõ là kể từ ngày 25/3/1975 có chừng 150000 người lính ĐPQ/NQ và lính chính
quy QLVNCH thuộc Vùng I và Vùng II đã “biến-mất-trong-cuộc-di-tản-chiến-thuật”.
Họ đã bỏ lại cho bộ đội CS Bắc Việt chiếm lấy tổng số hơn một tỷ đô la gồm có
quân trang, quân dụng, súng đạn, kho xăng dầu, quân xa, vân vân…, và gần 400
chiếc máy bay quân sự đủ loại! Với một thực tế tình hình của hai vùng chiến
thuật đã như vậy, thì hỏi làm sao Quốc Hội Mỹ “vui-lòng-chi-tiền”. Ngay cả
những Con-Diều-Hâu-Mỹ hiếu chiến nhất cũng không muốn chi-thêm-tiền cho TT
Thiệu! Sau chuyến đi thực tế ở Sài Gòn trở về Mỹ, Tướng Weyand đã tường trình
cho TT Ford biết là VNCH rất cần một “tài-khoản-khẩn-cấp” càng sớm càng tốt, và
TT Thiệu sẽ phải “từ chức”.
Ông Thiệu đã độc tài và quá
ích kỷ khi chỉ lo cho bản thân của ông. Một bằng chứng quá rõ là Ông Thiệu đã
điều động Sư Đoàn Dù thiện chiến của QLVNCH từ Quảng Trị về Sài Gòn chỉ để bảo
vệ cho ông chống lại
“cuộc-đảo-chính-tưởng-tượng-xảy-ra-trong-đầu-của-ông-Thiệu” trong lúc Sư Đoàn
Dù vừa đánh tan cuộc tấn công của những đơn vị CS Bắc Việt ở phía đông Quốc Lộ
1 tỉnh Quảng Trị. Ông Thiệu vì quá sợ bị đảo chính nên đã cách chức ông Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm, một tướng lãnh đã từng chỉ huy cuộc đảo chính trước
đây. Ông Thiệu đã bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Quốc Hội VNCH giữ chức
thủ tướng để thành lập một “chính-phủ-chiến-tranh”, nhưng Ông Cẩn đã không thể
thành lập được chính phủ mới, vì thế khiến cho nước VNCH kể từ ngày 4/4/1975
không có một chính phủ đủ chức năng quản lý. Ông Thiệu đã có nhiều nỗi lo sợ,
và càng lo sợ hơn nữa khi Ông Nguyễn “Cao-Bồi-Kỳ” hăm doạ
“giết-Thiệu-cướp-quyền”.
Bởi vì độc tài nên Ông Thiệu đã lo sợ
phải chia sẻ “quyền-lực-lãnh-đạo-của-ông” cho những người đối lập với ông trong
một chính phủ liên hiệp, ở đây phải nói cho rõ là “liên hiệp các đảng phái quốc
gia”, nhưng Ông Thiệu đã không muốn “chia sẻ quyền lực” cho ai khác, nên ông
khẳng định rằng “ai chống lại ông thì là cộng sản”.
Sau sự kiện “di-tản-chiến-thuật” bỏ miền
Trung Việt Nam và để mất thành phố Nha Trang-Khánh Hoà thì Quốc Hội VNCH cũng
đã lên án Ông Thiệu “độc tài, tham nhũng, bất công” và đề nghị Ông Thiệu thành
lập một “chính phủ đoàn-kết-quốc-gia”. Rất rõ ràng là trong tất cả những nỗi lo
sợ, Ông Thiệu sợ nhất là “bị-đảo-chính” bởi những người quốc-gia VNCH!
Ở miền Nam Việt Nam trong
thời gian tháng Ba và tháng Tư năm 1975 có những sự kiện liên tiếp xảy ra khiến
cho ngưới ta cảm thấy không được an toàn. Có nhiều người nước ngoài hiện sống
và làm việc ở Sài Gòn và các thành phố miền nam đã chuẩn bị cho gia đình, thân
nhân lần lượt hồi hương. Cũng có một số rất đông người Mỹ làm việc trong toà
Đại Sứ Mỹ, và nhiều công ty tư nhân Mỹ từ trước tới giờ đã nhiều ngày tháng năm
nên đã lập gia đình với người Việt hoặc có liên hệ nhiều bạn thân người Việt.
Khi họ ngửi được mùi không khí nguy hiểm của Việt Cộng thì họ đã âm thầm kín
đáo đưa người thân ra đi bằng các chuyến bay dân dụng, các chuyến bay vận tải
quân dụng, và cả những chuyến tàu vận tải đi Manila. Cho tới khi ông đại sứ
biết được thì họ phải ngưng lại; hơn nữa, đã tới lúc CS Bắc Việt bắt đầu pháo
kích sân bay Tân Sơn Nhất và sân bay Biên Hoà nên không còn các chuyến bay nữa.
Khi thực tế rõ ràng là Ông Thiệu đã
không thể thành lập được một “chính phủ đoàn kết quốc gia”, kể cả Cha Nguyễn
Văn Bình, Giám Mục Sài Gòn cũng kêu gọi Ông Thiệu từ chức vì lợi ích của quốc
gia và của nhân dân miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, Quốc Hội VNCH cũng đã chống đối
Ông Thiệu vì tính cách “độc tài, tham nhũng, bất công” của ông, đưa tới kết quả
là Ông Thiệu phải từ chức vào ngày 21/4/1975, một sự từ chức quá muộn sau khi
ông đã làm mất Vùng I và Vùng II Chiến Thuật về phía CS Bắc Việt. Ông Thiệu đã
được đánh giá là “không có khả năng làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH” vì thực tế chứng
minh rằng cuộc “Di-Tản-Chiến-Thuật” đã khiến cho một số tư lệnh và những sĩ quan
chỉ huy các đơn vị tác chiến VNCH bị lúng túng, bối rối không hiểu được Ông
Thiệu muốn làm gì!
Diễn
biến tình hình đã xảy ra như vậy mà khi Ông Thiệu tuyên bố từ chức thì ông lại
nói Đồng Minh Mỹ đã “tháo chạy, bỏ rơi chúng ta”; ngược lại, một cách rất mỉa
mai là vào ngày 28/4/1975 chính Ông Martin đã gởi cho Ông Kissinger một
điện-văn-mật thông báo rằng “người Mỹ sẽ có thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu
thêm một năm hay nhiều năm nữa”. Có lẽ Ông Martin đã quá lạc quan tin tưởng
rằng một biện pháp chính trị sẽ giải quyết hết vấn đề tranh chấp quyền lực lãnh
đạo xã hội miền Nam Việt Nam như trong tinh thần, ý nghĩa cao quí của Hiệp Định
Hoà Bình Paris 1973 đã được người Việt Quốc Gia và người Việt Cộng Sản ký kết
với nhau hai năm trước.
Ông Đại Sứ Pháp cũng đã tích cực vận động ủng hộ cho Tướng Dương Văn Minh và
Luật Sư Vũ Văn Mẫu là những người có lập trường Trung-Lập thay thế Ông Thiệu để
thành lập một chính phủ mới VNCH có đủ khả năng hiệp thương với VC miền Nam
Việt Nam và CS Bắc Việt.
Thật
đáng tiếc! Vào sáng sớm ngày 29/4/1975 Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh đã gặp
ông Sĩ Quan Tuỳ Viên Quân Sự Mỹ ở toà đại sứ và đã yêu cầu toàn bộ văn phòng
tuỳ viên quân sự phải rời khỏi Sài Gòn càng sớm càng tốt. Ông Martin và những
người có thẫm quyền ở toà đại sứ còn chưa hiểu được “Ông Big Minh muốn giỡ trò
quỷ quái gì đây”, thì chừng 30 phút sau đó đài phát thanh Sài Gòn loan báo lời
yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu, “yêu cầu tất cả người Mỹ phải lập
tức rời khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ”. Như vậy thì quá rõ ràng, không còn thắc
mắc gì nữa! Thật là oái oăm vô cùng, có hai lời tiên đoán, một đúng một sai,
một của Ông Thiệu đã nói vào ngày 21/4/1975 là “người Mỹ tháo chạy, bỏ rơi
chúng ta”, một của Ông Martin đã viết trong bức điện-văn-mật là “người Mỹ sẽ có
thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu thêm một năm hay nhiều năm nữa”. Bởi vì Ông
Martin đã tiên đoán sai, ông viết ra câu này hôm trước thì ngay hôm sau ông
phải vội vã khăn gói ra đi không được chần chờ!
Vừa rồi kể lại như trên chỉ
là sơ lược những nét chính của những
“Ngày Cuối Ở Miền Nam Việt Nam”, chắc chắn là còn nhiều thiếu sót, nhưng khả dĩ
cũng giúp cho người đọc nhìn lại quá khứ của miền Nam Việt Nam, của QLVNCH một
quân đội dũng mãnh đã từng đứng đầu ở Đông Nam Á nhưng phải chịu đựng một số
phận cay nghiệt do chính Tổng Tư Lệnh gây ra, và của MACV một phái bộ quân sự
Mỹ đã trợ giúp QLVNCH lớn mạnh hơn trong mọi lãnh vực chuyên môn, tác chiến của
tất cả các quân-binh-chủng. Rõ ràng đã có một sự liên đới, một tình cảm
anh-em-đồng-đội giữa QLVNCH và MACV. Cả hai QLVNCH và MACV đã luôn luôn tôn
trọng bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và Tình Người. Như đã nói ở phần
trên, sự ra đi vội vã của Ông Martin và sau đó vài giờ trong buổi sáng
30/4/1975, ông TT VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CSVN và với tư cách
Tổng Tư Lệnh đã giải tán QLVNCH!
Như vậy rất rõ ràng là sau
hai năm MACV và tất cả các đơn vị tác chiến Mỹ và Đồng Minh đã hoàn toàn
“về-nước-trong-danh-dự”, thì chính phủ VNCH mới bị sụp đổ, QLVNCH mới bị giải
tán, và cái hình ảnh chiếc trực thăng di tản trên nóc Toà Đại Sứ Mỹ trong ngày
29/4/1975 đã được CSVN dùng để tuyên truyền cho cuộc chiến
“giải-phóng-miền-Nam-Việt-Nam-đại-thắng” đối chiếu với sự thất bại của
“đế-quốc-Mỹ-xâm-lược”. Có một câu hỏi
vẫn còn nhức nhối trong tâm tư từ ngày 30/4/1975 cho tới nay đã 40 năm là
“Chính Phủ VNCH bị sụp đổ, QLVNCH bị giải tán, nước VNCH bị mất tên trên bản đồ
thế giới bởi Cái-Gì đã gây ra?” Bởi vì Tiền VN, Vàng, Đô Mỹ? Cho tới ngày
30/4/1975 những thứ này vẫn còn đầy trong các kho bạc của Ty Ngân Khố ở các
tỉnh, các ngân hàng tỉnh, và Ngân Hàng Quớc Gia Việt Nam tại Sài Gòn. Nếu nói
Chính Phủ VNCH đã bị sụp đổ vì “không-có-tiền” là nói hài hước châm biếm cay
độc, vì cái chính phủ cộng sản quản lý miền Nam VN vào thời gian kế tiếp đó “đã
đổi 500 đồng VNCH lấy 1 đồng CS”! Như vậy, trên thực tế Chính Phủ VNCH đã có
rất nhiều tiền, vàng, và đô la để ở trong kho của các Ty Ngân Khố và Ngân Hàng
Quốc Gia Việt Nam.
Hôm nay nhân dịp được xem cuốn phim tài
liệu thời sự của Cô Rory Kennedy cũng để có dịp nhìn lại quá khứ của nước VNCH
hơn 40 năm về trước. Đối với chiến tranh Việt Nam mặc dù có chung một mục đích
bảo vệ Tự Do nhưng tâm lý của người Mỹ khác với tâm lý của người Việt. Trong
khi người Việt đã có “những cuộc xung đột vũ trang như một cuộc nội chiến” để
tranh giành quyền lực lãnh đạo xã hội Việt Nam theo mô hình phàt triển cộng sản
hay mô hình phát triển tư bản, thì người Mỹ đã nhìn thấy nó như một “chiến
tranh khu vực bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á” sau khi người Mỹ đã
thành công ngăn chặn Bắc Hàn và Trung Cộng ở khu vực Đông Á. Nói cụ thể là
Chính Phủ Mỹ đã không muốn nước VNCH ngã xuống làm các nước khác ở Đông Nam Á
ngã theo, và cái quan niệm này khiến cho người Mỹ nghĩ rằng “Mỹ đánh CSVN dùm
cho VNCH” khi CSVN là tên “lính-xung-kích-cộng-sản-quốc-tế” của Trung Cộng-Liên
Sô. CSVN luôn xác định là một nước VN có miền Nam VN bị đế quốc Mỹ chiếm đóng,
trong khi Mỹ và VNCH luôn xác định là “hai nước VN”như Nam Hàn-Bắc Hàn, Đông
Đức-Tây Đức, vấn đề thống nhất đất nước được thảo luận, thương lượng sau khi đã
ngưng bắn. Vấn đề tranh giành quyền lực lãnh đạo xã hội, quản lý đất nước được
giải quyết bằng những phương tiện ôn hoà bầu cử ứng cử dân chủ tự do; ngược
lại, không được áp dụng bạo lực cách mạng bằng súng đạn cưỡng đoạt chính quyền.
Có hiểu như vậy mới hiểu tâm lý của người Mỹ là sau khi có Hiệp Định Hoà Bình
Paris 1973 thì “họ đã yên tâm để cho người Việt có quyền tự quyết định, tự chọn
lựa chính thể giữa cộng hoà và cộng sản, tự giải quyết vấn đề thống nhất nước
VN trong hoà bình.” Đối với người Mỹ thì Chiến Tranh Đông Dương II hay Chiến
Tranh VN đã chính thức chấm dứt, vì cả khu vực Đông Nam Á được ổn định lâu dài
tiếp theo đó. Có hiểu tâm lý của người Mỹ như thế mới nhận thấy được CSVN đã
sai lầm khi muốn “làm-nhục-người-Mỹ”, nhất là những quân nhân Mỹ đã phục vụ tại
VN và MACV, bởi vì họ đã làm xong nhiệm vụ của họ rất tốt.
Chính
Phủ VNCH của TT Minh và ThT Mẫu đã bị sụp đổ nhanh chóng trong một ngày bởi vì
cả hai TT Minh và ThT Mẫu đã bị CSVN lường gạt họ. Chính Phủ VNCH của TT Minh
và ThT Mẫu đã yêu cầu Ông Đại Sứ Mỹ và tất cả người Mỹ phải lập tức rời khỏi
nước VNCH trong thởi hạn 24 giờ đồng hồ để người Việt, gồm có VNCH và CSVN,
giải quyết vấn đề nội bộ với nhau. Người Mỹ không được phép xen vào chuyện nội
bộ của người Việt! Tuy nhiên, CSVN đã xảo quyệt lừa gạt hai ông Minh và Mẫu,
khi bắt buộc hai ông này đầu hàng vô điều kiện.
Cho tới hôm nay đã 40 năm sau
ngày tất cả công-dân-Mỹ phải vội vã rời khỏi Sài Gòn bằng những chuyến bay trực
thăng TQLC di tản trên nóc toà Đại Sứ Mỹ vẫn còn làm nhiều người Mỹ kinh ngạc,
nhất là những người Mỹ trẻ tuổi, họ không hiểu tại sao, cái nguyên nhân sâu xa
tại sao. Trong khi cái luận điệu tuyên
truyền của CSVN vẫn còn âm vang trong các sách báo phim ảnh để
“làm-nhục-người-Mỹ”, thì cách đặt lại vấn đề “CSVN đánh bại Mỹ” và “Ông Đại Sứ
Mỹ tháo chạy khỏi Sài Gòn” trong cuốn phim tài liệu thời sự của Cô Kennedy rất
thiết thực, và nó lôi cuốn sự chú ý của người xem. Dĩ nhiên có rất nhiều tài
liệu, phim ảnh, tin tức thời sự có liên quan tới “Những Ngày Cuối Ở Việt Nam”
nhưng Cô Kennedy không thể bao gồm hết trong phim này. Tuy nhiên, hình ảnh của
chiếc trực thăng TQLC Mỹ đậu trên nóc toà Đại Sứ Mỹ để di tản những người đi
lánh nạn cộng sản, và những hình ảnh của chiếc tàu HQ Mỹ chở rất nhiều người tị
nạn đã nói lên được Tình-Người, họ sẵn sàng cứu giúp lẫn nhau trong cơn hoạn
nạn nguy hiểm.
Cũng
rất tiếc rằng không còn Ông Martin để nghe giọng nói “nhỏ-nhẹ” của ông, để hỏi
cảm-nghĩ của ông thế nào khi ông nghe “bị-đuổi-nhà-trong-thời-hạn-một-ngày.”
Thông thường thì chủ-nhà phải gởi “giấy thông báo đuổi nhà” trước 60 ngày! Có
lẽ trong ngày 29/4/1975 ông Luật Sư Mẫu đã lạm dụng quyền Nhà-Đất VN để đá-đít
Ông Martin ra khỏi Nhà-Đất VN! Trong phim tài liệu thời sự này cũng có phần phỏng vấn những
người liên quan trong phim như những người miền Nam VN tị nạn, phi công Mỹ lái
trực thăng di tản, và lính TQLC ở toà đại sứ Mỹ; dĩ nhiên là không có phỏng vấn
những người CS Bắc Việt và VC miền Nam. Cũng có phần phỏng vấn các nhân vật nổi
tiếng quan trọng như Ông Ron Nessen, Trưởng ban Báo chí của Tổng Thống Ford;
Ông Richard Armitage, Phụ tá Ngoại Trưởng người đã phụ trách việc di tản Hải
Quân VNCH tới Phi Luật Tân; Ông Frank Snepp cựu nhân viên CIA làm việc trong
toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn; và nhất là có Ông Kissinger, cựu Ngoại Trưởng, Trưởng
Đoàn Mỹ trong cuộc hoà đàm Paris 1973, nghe cái giọng của người già
Kissinger-gốc-Đức nói tiếng Mỹ “ồm-ồm” lẩm bẩm đến tức cười, Ông Kissinger nói
cuộc di tản “hổn loạn kinh khủng”. Lẽ
tất nhiên là phải “hổn loạn kinh khủng” vì có quá đông người phải ra đi trong
thời hạn ngắn 24 giờ đồng hồ. Cũng có lẽ cái lệnh của ông ThT Mẫu
“đuổi-nhà-ông-đại-sứ-Mỹ” đã được loan đi lặp lại nhiều lần trên làn sóng phát
thanh của đài Sài Gòn làm cho toàn thể người dân miền Nam Việt Nam lúc đó rất
hoảng hốt lo sợ, và đã có rất nhiều người dân miền nam bỏ lại nhà cửa, ruộng
vườn, tài sản, thân nhân của mình để vượt biên lánh nạn cộng sản ngay trong
ngày 29/4/1975./.
Nguyễn Thành Trí, Sài Gòn 22/2/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét