LỆNH ĐUỔI NHÀ ÔNG ĐẠI SỨ MỸ
NGÀY 29/4/1975 Ở NƯỚC VNCH
Nguyễn Thành Trí
(Đại Sứ Mỹ Graham Martin đã rời khỏi Sài Gòn lúc 4 giờ rưỡi sáng 30/4/1975 trên chiếc trực thăng TQLC cuối cùng bay ra Chiến Hạm USS Blue Ridge ở ngoài khơi Biển Đông. Trong hình trên các phóng viên báo chí đang phỏng vấn Ông Graham Martin.
Photo credit Designer Nguyen Phan Thanh.)
Photo credit Designer Nguyen Phan Thanh.)
Phải nói cho đúng là
“Dân Chúng Miền Nam Việt Nam Hoảng Sợ Chạy Trốn Cộng Sản Việt Nam!”, vì thật rõ
ràng không phải Đồng Minh Mỹ tháo chạy bởi đã thua trận như những cách nói hàm
hồ của luận điệu tuyên truyền xảo quyệt của cộng sản quốc tế và CSVN để làm
nhục Chính Phủ Mỹ.
Trong vòng sáu mươi ngày sau khi Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 được ký kết thì toàn bộ các đơn vị quân sự Đồng Minh, Mỹ và Bộ Chỉ Huy MACV trở về nước Mỹ trong danh dự bởi vì họ đã làm xong nhiệm vụ chặn đứng cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt để bảo vệ tự do cho nhân dân miền Nam Việt Nam được thực hiện quyền Dân-Tộc-Tự-Quyết tự do chọn lựa chính thể giữa cộng sản độc tài hoặc cộng hoà tự do.
Trái với thực tế của luận điệu tuyên truyền gian trá của cộng sản là người Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam để biến miền nam thành một thuộc địa kiểu mới, hoặc là trở nên Tiểu Bang thứ 51 của Đế Quốc Mỹ.
Trong vòng sáu mươi ngày sau khi Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 được ký kết thì toàn bộ các đơn vị quân sự Đồng Minh, Mỹ và Bộ Chỉ Huy MACV trở về nước Mỹ trong danh dự bởi vì họ đã làm xong nhiệm vụ chặn đứng cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt để bảo vệ tự do cho nhân dân miền Nam Việt Nam được thực hiện quyền Dân-Tộc-Tự-Quyết tự do chọn lựa chính thể giữa cộng sản độc tài hoặc cộng hoà tự do.
Trái với thực tế của luận điệu tuyên truyền gian trá của cộng sản là người Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam để biến miền nam thành một thuộc địa kiểu mới, hoặc là trở nên Tiểu Bang thứ 51 của Đế Quốc Mỹ.
Cho dù Cộng Sản Bắc
Việt và VC Miền Nam đã quá gian manh, quỷ quyệt, nhưng chính họ không nghĩ tới
việc họ cố ý vi phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973, cưỡng chiếm miền Nam Việt
Nam, loại bỏ chính phủ VNCH, lại là một cơ-hội-tốt cho người Mỹ rửa sạch tiếng
xấu là đế quốc xâm lược miền Nam Việt Nam.
Cho tới ngày 30/4/1975 thì nhân dân miền Nam Việt Nam và nhân dân miền Bắc Việt Nam cũng như nhân dân các nước khác đã biết rất rõ ai chính là kẻ xâm lăng miền Nam Việt Nam. Thật quá bất hạnh cho nhân dân miền Nam Việt Nam khi không được chính thức bầu cử tự do trong một cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát thì họ cũng có thể “bầu-cử-bằng-chân” của họ từ-chối-cộng-sản và cũng có quốc tế quan sát nhận thấy “kết-quả-không-cộng-sản” trong sự tự do chọn lựa của nhân dân miền Nam Việt Nam bắt đầu kể từ ngày TT Thiệu ra lệnh “Di Tản Chiến Thuật” bỏ trống Miền Trung cả hai Vùng I và Vùng II Chiến Thuật. Nhân Dân VNCH tự do đã liều chết chạy lánh nạn cộng sản. Nhân Dân VNCH, người Việt Nam nói chung, đã công khai bỏ phiếu lựa chọn giữa cộng sản độc tài hoặc cộng hoà tự do một cách rất rõ ràng.
Cho tới ngày 30/4/1975 thì nhân dân miền Nam Việt Nam và nhân dân miền Bắc Việt Nam cũng như nhân dân các nước khác đã biết rất rõ ai chính là kẻ xâm lăng miền Nam Việt Nam. Thật quá bất hạnh cho nhân dân miền Nam Việt Nam khi không được chính thức bầu cử tự do trong một cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát thì họ cũng có thể “bầu-cử-bằng-chân” của họ từ-chối-cộng-sản và cũng có quốc tế quan sát nhận thấy “kết-quả-không-cộng-sản” trong sự tự do chọn lựa của nhân dân miền Nam Việt Nam bắt đầu kể từ ngày TT Thiệu ra lệnh “Di Tản Chiến Thuật” bỏ trống Miền Trung cả hai Vùng I và Vùng II Chiến Thuật. Nhân Dân VNCH tự do đã liều chết chạy lánh nạn cộng sản. Nhân Dân VNCH, người Việt Nam nói chung, đã công khai bỏ phiếu lựa chọn giữa cộng sản độc tài hoặc cộng hoà tự do một cách rất rõ ràng.
Ngày 30/4/1975 cũng
chính là ngày Chính Phủ Mỹ đã triệt để tôn trọng Chủ Quyền của Chính Phủ VNCH,
nghiêm chỉnh làm đúng theo lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu là tất
cả người Mỹ phải đi khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ. Như
vậy thì Đồng Minh Mỹ đã không phải bị thua trận mà tháo chạy; ngược lại, Đồng
Minh Mỹ đã phải vội vã ra đi vì bị chính Đồng Minh VNCH
“đuổi-nhà-không-cho-ở-chung-nữa”.
Thường thường người trí thức tự do tây phương hay tự nói về những thành công hay thất bại, những ủng hộ thuận lợi hoặc áp lực trở ngại, để phân tích tìm hiểu rút kinh nghiệm cho chính mình và cho người khác; còn đối với ông Vũ Văn Mẫu thì có vẻ “cam-lòng-chịu-đựng-sự-phũ-phàng-nhục-nhã” khi chính ông Mẫu đã phải giữ im lặng cho tới chết.
Thường thường người trí thức tự do tây phương hay tự nói về những thành công hay thất bại, những ủng hộ thuận lợi hoặc áp lực trở ngại, để phân tích tìm hiểu rút kinh nghiệm cho chính mình và cho người khác; còn đối với ông Vũ Văn Mẫu thì có vẻ “cam-lòng-chịu-đựng-sự-phũ-phàng-nhục-nhã” khi chính ông Mẫu đã phải giữ im lặng cho tới chết.
Một cách rất đáng ngạc
nhiên là chẳng những không có một tên lãnh đạo CSVN nào trên bình diện chính
trị và quân sự, mà cũng không còn có một tên trí thức cộng sản ở trong đảng
CSVN và trí thức VN ở ngoài đảng trên bình diện lịch sử, có đủ can đảm và lòng
tự-trọng-trí-thức để nói tới chuyện ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu đã “đuổi-nhà”
ông Đại Sứ Mỹ trong thời hạn một ngày để cho họ, CSVN, cưỡng chiếm toàn bộ lãnh
thổ VNCH một cách quá dễ dàng. Cũng có thể CSVN đã lường gạt cả hai ông tổng
thống và thủ tướng cuối cùng của VNCH một cách quá dễ dàng trong những ngày sau
cùng của một chế độ cộng hòa ở miền Nam Việt Nam tự do.
Cũng có thể vì ở trong
một chế độ cộng sản không có tự do ở nước Việt Nam nên họ, những người trí thức
cộng sản cũng như không cộng sản, cũng không có lòng tự-trọng-trí-thức để nói
về một sự thật, một sự kiện lịch sử quan trọng ở Việt Nam đã xảy ra trong ngày
29/4/1975. Đó không phải là một chiến thắng quân sự. Vì làm thế nào có chiến thắng
quân sự khi đã ký kết Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa khiến cho tên Lê
Đức Thọ không dám nhận Giải Nobel Hoà Bình. Quả thật, đó đúng là một sự gian xảo
lường gạt.
Đó cũng chính vì một
lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH đã tạo ra một hình ảnh của ông Đại Sứ Mỹ với
một lá cờ Mỹ xếp gọn theo hình tam giác được ôm trong tay ông ta và vội vã cùng
với vài người lính Mỹ bảo vệ cho ông bước lên một chiếc trực thăng TQLC Mỹ bay
ra khỏi Sài Gòn. Họ là những người Mỹ sau cùng phải vẩy tay chào từ giả Sài Gòn
vào lúc 4 giờ rưỡi sáng sớm ngày 30/4/1975. Đối với ông Đại Sứ Mỹ thì luôn luôn
phải tôn trọng và bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, và Tình Người. Tổ Quốc là
lá cờ Mỹ ông đang ôm trong tay. Danh Dự là khi “được yêu cầu ra đi thì sẵn sàng
ra đi!”
Nếu ông Thủ Tướng VNCH đã không “đuổi người Mỹ phải đi khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ”, mà ngược lại đó là một lời “chính thức yêu cầu nước Mỹ cứu nạn nước VNCH trước thảm hoạ CSBV”, thì biến chuyển tình hình ở Sài Gòn vào ngày cuối tháng Tư và những ngày đầu tháng Năm 1975 chắc có lẽ đã khác hơn là cuộc cưỡng chiếm lãnh thổ VNCH một cách quá dễ dàng.
Sau khi đã ký kết Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973, các hành động của nước Mỹ đối với nước VNCH phải bị ràng buộc có “danh chính ngôn thuận”. Tại sao trên làn sóng phát thanh của Đài Sài Gòn vào buổi sáng sớm ngày 29/4/1975 ông Vũ Văn Mẫu Th. T. VNCH đã không công khai yêu cầu nước Mỹ cứu nạn thảm hoạ cộng sản, thay vì đuổi người Mỹ đi khỏi miền Nam VN. Nếu người Mỹ không đi, thì rõ ràng người Mỹ đã vi phạm chủ quyền quốc gia VNCH.
Nếu ông Thủ Tướng VNCH đã không “đuổi người Mỹ phải đi khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ”, mà ngược lại đó là một lời “chính thức yêu cầu nước Mỹ cứu nạn nước VNCH trước thảm hoạ CSBV”, thì biến chuyển tình hình ở Sài Gòn vào ngày cuối tháng Tư và những ngày đầu tháng Năm 1975 chắc có lẽ đã khác hơn là cuộc cưỡng chiếm lãnh thổ VNCH một cách quá dễ dàng.
Sau khi đã ký kết Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973, các hành động của nước Mỹ đối với nước VNCH phải bị ràng buộc có “danh chính ngôn thuận”. Tại sao trên làn sóng phát thanh của Đài Sài Gòn vào buổi sáng sớm ngày 29/4/1975 ông Vũ Văn Mẫu Th. T. VNCH đã không công khai yêu cầu nước Mỹ cứu nạn thảm hoạ cộng sản, thay vì đuổi người Mỹ đi khỏi miền Nam VN. Nếu người Mỹ không đi, thì rõ ràng người Mỹ đã vi phạm chủ quyền quốc gia VNCH.
Rất nhiều người Việt
Nam đã không biết, hoặc đã bị tuyên truyền cộng sản nên hiểu lầm rằng “Đồng
Minh Mỹ tháo chạy”, hoặc họ đã có biết nhưng họ lại cố quên rồi chuyện
“Ông-Thủ-Tướng-Một-Ngày” chỉ một ngày 29/4/1975 làm thủ tướng VNCH, nhưng ông
thủ tướng này lại có đủ thẫm quyền ra lệnh cho Đồng Minh Mỹ phải “tháo-chạy”
trong thời hạn chỉ một ngày.
Quả thật rõ ràng đây là một thứ “định-mệnh-cay-nghiệt” dành cho ông Đại Sứ Mỹ! Ông Thủ Tướng VNCH Một Ngày đúng là khắc-tinh của ông Đại Sứ Mỹ đã hơn một ngàn ngày làm việc và sống tại Sài Gòn! Vấn đề tôn trọng danh dự và mạng sống của chính mình là một chuyện quan trọng, nhưng Trách Nhiệm và Tình Người lại là một chuyện khác quan trọng hơn nhiều nữa.
Quả thật rõ ràng đây là một thứ “định-mệnh-cay-nghiệt” dành cho ông Đại Sứ Mỹ! Ông Thủ Tướng VNCH Một Ngày đúng là khắc-tinh của ông Đại Sứ Mỹ đã hơn một ngàn ngày làm việc và sống tại Sài Gòn! Vấn đề tôn trọng danh dự và mạng sống của chính mình là một chuyện quan trọng, nhưng Trách Nhiệm và Tình Người lại là một chuyện khác quan trọng hơn nhiều nữa.
Vì vậy ông Đại Sứ Mỹ
đã từ chối lên chiếc trực thăng TQLC đầu tiên bay đi. Trong thời hạn 24 giờ
đồng hồ của ngày 29/4/1975 thì ông đại sứ đã quyết định ở lại cho tới những
phút sau cùng để ông chắc chắn rằng tất cả công-dân-Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã
ra đi an toàn, và nhất là những người Việt Nam, có lẽ có gần ba ngàn người đã
vào được “lãnh địa của toà Đại Sứ Mỹ” có nghĩa là họ
“vào-được-cái-nhà-của-ông-đại-sứ”, và họ đã được 75 chiếc trực thăng TQLC Mỹ đưa
đi ra những chiếc tàu HQ Mỹ ở ngoài khơi Biển Đông. Nếu ông Đại Sứ Mỹ có một
thứ “quyền-năng-đặc-biệt” như Siêu-Nhân có thể nắm giữ trái đất lại không cho
xoay tròn hết một ngày để thời gian ngừng lại, thì ông đã di tản hết những
người Việt Nam ngồi chờ chuyến trực thăng TQLC Mỹ bay đi. Khi hiểu cái giới hạn
khả năng của ông đại sứ trong thời hạn một ngày, thì người ta hiểu được cái ý
nghĩa sâu sắc của một tấm hình chụp chiếc trực thăng đậu trên nóc toà đại sứ và
một đoàn người tiếp theo nhau leo cầu thang để vào bên trong chiếc máy bay di
tản.
Quả thật, “Những Ngày
Cuối Tháng Tư Ở Việt Nam” đúng ra là của ông Graham Martin, Đại Sứ Mỹ ở nước
VNCH. Ông Graham Martin đã hết sức giúp đở di tản rất nhiều người miền Nam Việt
Nam lánh nạn Cộng Sản Việt Nam. Ông Đại Sứ Mỹ là người đại diện cho nước Mỹ
trong quan hệ ngoại giao với nước VNCH. Ông đại sứ đã phải giả từ Sài Gòn, thủ
đô của nước VNCH, trong thời hạn một ngày dựa trên lời yêu cầu của ông Thủ
Tướng VNCH. Ông đại sứ đã đi khỏi nước VNCH vì Tổ Quốc, Danh Dự, và Trách Nhiệm
của ông. Sự ra đi vội vàng của ông đại sứ là vì cái thời hạn 24 giờ đồng hồ
phải chắc chắn rằng tất cả những người ra đi được an toàn; tuy nhiên, sự ra đi
quá nhiều mệt mõi này, vì cho tới 4 giờ rưỡi sáng ngày 30/4/1975 ông đại sứ mới
lên chuyến bay trực thăng cuối cùng rời khỏi Sài Gòn, cũng đã gián tiếp có thể
làm phục hồi danh dự cho MACV, một phái bộ quân sự cũng giống như ông đại sứ
luôn luôn tôn trọng tôn chỉ hành động bảo vệ “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và
Tình Người”.
Phái bộ MACV đã an toàn
trở về nước Mỹ trong danh dự sau khi hiệp định hòa bình đã được ký kết. Còn hơn
thế nữa, sự ra đi của ông đại sứ chẳng những phục hồi danh dự cho MACV, mà còn
có thể gián tiếp phục hồi danh dự cho Quân Lực VNCH, một quân đội cộng hoà đã
từng được sự trợ giúp của MACV để trở nên một quân đội đứng hàng đầu ở Đông Nam
Á. Quân Lực VNCH đã bị rối loạn hàng ngũ bởi vì những quyết định sai lầm nghiêm
trọng của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH và có một số ít sĩ quan cao cấp đã phạm lỗi tự
ý bỏ đơn vị ra đi trước để được an toàn cá nhân, nhưng cả một tập thể QLVNCH
không để mất danh dự. Cả hai, MACV và QLVNCH, đã không để mất Danh Dự của mình
bởi vì sau hiệp định hoà bình đã không thực sự giao chiến với địch quân cộng
sản.
Người ta nhận thấy một
cách khách quan là “chính hai vị tổng tư lệnh cuối cùng của QLVNCH đã phạm sai
lầm làm tan rã hàng ngũ quân đội sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực. Có một
nghi-án của Quân Sử VNCH là “Ai đã bày-mưu-hiến-kế cho TT Thiệu quyết định
“Di-Tản-Chiến-Thuật” bỏ trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật. Một cách cụ thể là
TT Thiệu đã “gián tiếp giao cả Miền Trung Việt Nam cho CSVN!”
Một bằng chứng điển hình là vào ngày 2/4/1975 các cấp chỉ huy đơn vị VNCH ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà đã nhận lệnh của “Người Nào” để “di-tản-chiến-thuật” bỏ trống thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hoà, mặc dù đã không có một cuộc tấn công lớn nhỏ nào của bộ đội CS Bắc Việt. Cho tới ba ngày sau, 5/4/1975, chỉ có vài đơn vị nhỏ của bộ đội CS Bắc Việt với VC địa phương tới tiếp quản thành phố này.
Một bằng chứng điển hình là vào ngày 2/4/1975 các cấp chỉ huy đơn vị VNCH ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà đã nhận lệnh của “Người Nào” để “di-tản-chiến-thuật” bỏ trống thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hoà, mặc dù đã không có một cuộc tấn công lớn nhỏ nào của bộ đội CS Bắc Việt. Cho tới ba ngày sau, 5/4/1975, chỉ có vài đơn vị nhỏ của bộ đội CS Bắc Việt với VC địa phương tới tiếp quản thành phố này.
Sự kiện “Di-Tản-Chiến-Thuật”
bỏ trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật đã được ghi lại trong các bản báo cáo
của ông William Colby, Trưởng Cơ Quan CIA và của ông Đại Tướng Fred Weyand,Tham
Mưu Trưởng Lục Quân Mỹ và là Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, sau khi trở lại miền Nam VN
quan sát thực tế tình hình để tường trình lên TT Gerald Ford.
Ông TT Thiệu đã yêu cầu giải quyết các đơn vị CS Bắc Việt hiện ở dưới vĩ tuyến 17 bằng những chuyến bay B52, nhưng Tướng Weyand và ông Đại Sứ Martin đã không đồng ý áp dụng chương trình B52.
Sau khi phân tích tình hình, chỉ có ông Đại Tá William LeGro, Trưởng Tình Báo Tuỳ Viên Quốc Phòng của toà đại sứ là cùng quan điểm với TT Thiệu yêu cầu áp dụng chương trình B52 trên các mục tiêu chỉ định CS Bắc Việt. Tuy nhiên, người Mỹ sẽ “hành-động-tự-vệ” chỉ khi nào bộ đội CS Bắc Việt hoặc VC địa phương đánh vào toà đại sứ hay các văn phòng lãnh sự của Mỹ. Vì vậy không thể “vô-cớ” áp dụng chương trình B52 theo yêu cầu của TT Thiệu. Đấy là lần cuối của Đại Tướng Fred Weyand, Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, đã trở lại với VNCH ở miền Nam Việt Nam, trước khi đi vào lịch sử chiến tranh hải ngoại của Quân Đội Mỹ và quân-sử của QLVNCH.
Ông TT Thiệu đã yêu cầu giải quyết các đơn vị CS Bắc Việt hiện ở dưới vĩ tuyến 17 bằng những chuyến bay B52, nhưng Tướng Weyand và ông Đại Sứ Martin đã không đồng ý áp dụng chương trình B52.
Sau khi phân tích tình hình, chỉ có ông Đại Tá William LeGro, Trưởng Tình Báo Tuỳ Viên Quốc Phòng của toà đại sứ là cùng quan điểm với TT Thiệu yêu cầu áp dụng chương trình B52 trên các mục tiêu chỉ định CS Bắc Việt. Tuy nhiên, người Mỹ sẽ “hành-động-tự-vệ” chỉ khi nào bộ đội CS Bắc Việt hoặc VC địa phương đánh vào toà đại sứ hay các văn phòng lãnh sự của Mỹ. Vì vậy không thể “vô-cớ” áp dụng chương trình B52 theo yêu cầu của TT Thiệu. Đấy là lần cuối của Đại Tướng Fred Weyand, Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, đã trở lại với VNCH ở miền Nam Việt Nam, trước khi đi vào lịch sử chiến tranh hải ngoại của Quân Đội Mỹ và quân-sử của QLVNCH.
Quân-sử của QLVNCH
chắc chắn phải ghi lại sự kiện TT Thiệu đã quyết định “di-tản-chiến-thuật” bỏ
trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật để cho CSVN chiếm lấy cả miền Trung Việt
Nam một cách quá dễ dàng! Hơn nữa, cuộc “Di-Tản-Chiến-Thuật” của TT Thiệu cũng
trực tiếp gây khó khăn cho TT Ford trước Quốc Hội Mỹ trong việc yêu cầu quốc
hội chấp thuận tài khoản quân viện cho VNCH, mà việc yêu cầu này phải nói
tránh-tiếng là “tài-khoản-viện-trợ-nhân-đạo-cho-người-tỵ-nạn-cộng-sản” ; bởi vì
Quốc Hội Mỹ đã biết rõ là kể từ ngày 25/3/1975 có chừng 150000 người lính
ĐPQ/NQ và lính chính quy QLVNCH thuộc Vùng I và Vùng II đã
“biến-mất-trong-cuộc-di-tản-chiến-thuật”.
Họ đã bỏ lại cho bộ đội CS Bắc Việt chiếm lấy tổng số hơn một tỷ đô la gồm có quân trang, quân dụng, súng đạn, kho xăng dầu, quân xa, vân vân…, và gần 400 chiếc máy bay quân sự đủ loại! Với một thực tế tình hình của hai vùng chiến thuật đã như vậy, thì hỏi làm sao Quốc Hội Mỹ “vui-lòng-chi-tiền”. Ngay cả những Con-Diều-Hâu-Mỹ hiếu chiến nhất cũng không muốn chi-thêm-tiền cho TT Thiệu! Sau chuyến đi thực tế ở Sài Gòn trở về Mỹ, Tướng Weyand đã tường trình cho TT Ford biết là VNCH rất cần một “tài-khoản-khẩn-cấp” càng sớm càng tốt, và TT Thiệu sẽ phải “từ chức”.
Họ đã bỏ lại cho bộ đội CS Bắc Việt chiếm lấy tổng số hơn một tỷ đô la gồm có quân trang, quân dụng, súng đạn, kho xăng dầu, quân xa, vân vân…, và gần 400 chiếc máy bay quân sự đủ loại! Với một thực tế tình hình của hai vùng chiến thuật đã như vậy, thì hỏi làm sao Quốc Hội Mỹ “vui-lòng-chi-tiền”. Ngay cả những Con-Diều-Hâu-Mỹ hiếu chiến nhất cũng không muốn chi-thêm-tiền cho TT Thiệu! Sau chuyến đi thực tế ở Sài Gòn trở về Mỹ, Tướng Weyand đã tường trình cho TT Ford biết là VNCH rất cần một “tài-khoản-khẩn-cấp” càng sớm càng tốt, và TT Thiệu sẽ phải “từ chức”.
Ông Thiệu đã độc tài
và quá ích kỷ khi chỉ lo cho bản thân của ông. Một bằng chứng quá rõ là Ông
Thiệu đã điều động Sư Đoàn Dù thiện chiến của QLVNCH từ Quảng Trị về Sài Gòn
chỉ để bảo vệ cho ông chống lại
“cuộc-đảo-chính-tưởng-tượng-xảy-ra-trong-đầu-của-ông-Thiệu” trong lúc Sư Đoàn
Dù vừa đánh tan cuộc tấn công của những đơn vị CS Bắc Việt ở phía đông Quốc Lộ
1 tỉnh Quảng Trị.
Ông Thiệu vì quá sợ bị đảo chính nên đã cách chức ông Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, một tướng lãnh đã từng chỉ huy cuộc đảo chính trước đây. Ông Thiệu đã bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Quốc Hội VNCH giữ chức thủ tướng để thành lập một “chính-phủ-chiến-tranh”, nhưng Ông Cẩn đã không thể thành lập được chính phủ mới, vì thế khiến cho nước VNCH kể từ ngày 4/4/1975 không có một chính phủ đủ chức năng quản lý.
Ông Thiệu vì quá sợ bị đảo chính nên đã cách chức ông Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, một tướng lãnh đã từng chỉ huy cuộc đảo chính trước đây. Ông Thiệu đã bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Quốc Hội VNCH giữ chức thủ tướng để thành lập một “chính-phủ-chiến-tranh”, nhưng Ông Cẩn đã không thể thành lập được chính phủ mới, vì thế khiến cho nước VNCH kể từ ngày 4/4/1975 không có một chính phủ đủ chức năng quản lý.
Ông Thiệu đã có nhiều
nỗi lo sợ, và càng lo sợ hơn nữa khi Ông Nguyễn “Cao-Bồi-Kỳ” hăm doạ
“giết-Thiệu-cướp-quyền”. Bởi vì độc tài nên Ông Thiệu đã lo sợ phải chia sẻ
“quyền-lực-lãnh-đạo-của-ông” cho những người đối lập với ông trong một chính
phủ liên hiệp, ở đây phải nói cho rõ là “liên hiệp các đảng phái quốc gia”,
nhưng Ông Thiệu đã không muốn “chia sẻ quyền lực” cho ai khác, nên ông khẳng
định rằng “ai chống lại ông thì là cộng sản”.
Sau sự kiện “di-tản-chiến-thuật” bỏ miền Trung Việt Nam và để mất thành phố Nha Trang-Khánh Hoà thì Quốc Hội VNCH cũng đã lên án Ông Thiệu “độc tài, tham nhũng, bất công” và đề nghị Ông Thiệu thành lập một “chính phủ đoàn-kết-quốc-gia”. Rất rõ ràng là trong tất cả những nỗi lo sợ, Ông Thiệu sợ nhất là “bị-đảo-chính” bởi những người quốc-gia VNCH!
Sau sự kiện “di-tản-chiến-thuật” bỏ miền Trung Việt Nam và để mất thành phố Nha Trang-Khánh Hoà thì Quốc Hội VNCH cũng đã lên án Ông Thiệu “độc tài, tham nhũng, bất công” và đề nghị Ông Thiệu thành lập một “chính phủ đoàn-kết-quốc-gia”. Rất rõ ràng là trong tất cả những nỗi lo sợ, Ông Thiệu sợ nhất là “bị-đảo-chính” bởi những người quốc-gia VNCH!
Khi thực tế rõ ràng là
Ông Thiệu đã không thể thành lập được một “chính phủ đoàn kết quốc gia”, kể cả
Cha Nguyễn Văn Bình, Giám Mục Sài Gòn cũng kêu gọi Ông Thiệu từ chức vì lợi ích
của quốc gia và của nhân dân miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, Quốc Hội VNCH cũng đã
chống đối Ông Thiệu vì tính cách “độc tài, tham nhũng, bất công” của ông, đưa
tới kết quả là Ông Thiệu phải từ chức vào ngày 21/4/1975, một sự từ chức quá
muộn sau khi ông đã làm mất Vùng I và Vùng II Chiến Thuật về phía CS Bắc Việt.
Ông Thiệu đã được đánh giá là “không có khả năng làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH” vì
thực tế chứng minh rằng cuộc “Di-Tản-Chiến-Thuật” đã khiến cho một số tư lệnh và
những sĩ quan chỉ huy các đơn vị tác chiến VNCH bị lúng túng, bối rối không
hiểu được Ông Thiệu muốn làm gì!
Diễn biến tình hình đã
xảy ra như vậy mà khi Ông Thiệu tuyên bố từ chức thì ông lại nói Đồng Minh Mỹ
đã “tháo chạy, bỏ rơi chúng ta”; ngược lại, một cách rất mỉa mai là vào ngày
28/4/1975 chính Ông Martin đã gởi cho Ông Kissinger một bức điện-văn-mật thông
báo rằng “người Mỹ sẽ có thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu thêm một năm hay nhiều
năm nữa”.
Có lẽ Ông Martin đã quá lạc quan tin tưởng rằng một biện pháp chính trị sẽ giải quyết hết vấn đề tranh chấp quyền lực lãnh đạo xã hội miền Nam Việt Nam như trong tinh thần, ý nghĩa cao quí của Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 đã được người Việt Quốc Gia và người Việt Cộng Sản ký kết với nhau hai năm trước. Ông Đại Sứ Pháp cũng đã tích cực vận động ủng hộ cho Tướng Dương Văn Minh và Luật Sư Vũ Văn Mẫu là những người có lập trường Trung-Lập thay thế Ông Thiệu để thành lập một chính phủ mới VNCH có đủ khả năng hiệp thương với VC miền Nam Việt Nam và CS Bắc Việt.
Có lẽ Ông Martin đã quá lạc quan tin tưởng rằng một biện pháp chính trị sẽ giải quyết hết vấn đề tranh chấp quyền lực lãnh đạo xã hội miền Nam Việt Nam như trong tinh thần, ý nghĩa cao quí của Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 đã được người Việt Quốc Gia và người Việt Cộng Sản ký kết với nhau hai năm trước. Ông Đại Sứ Pháp cũng đã tích cực vận động ủng hộ cho Tướng Dương Văn Minh và Luật Sư Vũ Văn Mẫu là những người có lập trường Trung-Lập thay thế Ông Thiệu để thành lập một chính phủ mới VNCH có đủ khả năng hiệp thương với VC miền Nam Việt Nam và CS Bắc Việt.
Thật đáng tiếc! Vào
sáng sớm ngày 29/4/1975 Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh đã gặp ông Sĩ Quan Tuỳ
Viên Quân Sự Mỹ ở toà đại sứ và đã yêu cầu toàn bộ văn phòng tuỳ viên quân sự
phải rời khỏi Sài Gòn càng sớm càng tốt. Nên ghi nhận ở đây là TT Minh chỉ yêu
cầu toàn bộ văn phòng tuỳ viên quân sự Mỹ, chứ không phải là tất cả người Mỹ ở
Miền Nam VN. Ông Martin và những người có thẫm quyền ở toà đại sứ còn chưa hiểu
được “Ông Big Minh muốn giỡ trò quỷ quái gì đây”, thì chừng 30 phút sau đó đài
phát thanh Sài Gòn loan báo lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu, “yêu
cầu tất cả người Mỹ phải lập tức rời khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24
giờ đồng hồ”.
Như vậy thì quá rõ ràng, không còn thắc mắc gì nữa! Thật là oái oăm vô cùng, có hai lời tiên đoán, một đúng một sai, một của Ông Thiệu đã nói vào ngày 21/4/1975 là “người Mỹ tháo chạy, bỏ rơi chúng ta”, một của Ông Martin đã viết trong bức điện-văn-mật gởi cho Ông Kissinger là “người Mỹ sẽ có thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu thêm một năm hay nhiều năm nữa”. Bởi vì Ông Martin đã tiên đoán sai, ông viết ra câu này hôm trước thì ngay hôm sau ông phải vội vã khăn gói ra đi không được chần chờ!
Như vậy thì quá rõ ràng, không còn thắc mắc gì nữa! Thật là oái oăm vô cùng, có hai lời tiên đoán, một đúng một sai, một của Ông Thiệu đã nói vào ngày 21/4/1975 là “người Mỹ tháo chạy, bỏ rơi chúng ta”, một của Ông Martin đã viết trong bức điện-văn-mật gởi cho Ông Kissinger là “người Mỹ sẽ có thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu thêm một năm hay nhiều năm nữa”. Bởi vì Ông Martin đã tiên đoán sai, ông viết ra câu này hôm trước thì ngay hôm sau ông phải vội vã khăn gói ra đi không được chần chờ!
Vừa rồi kể lại như
trên chỉ là sơ lược những nét chính của những “Ngày Cuối Tháng Tư Ở Miền Nam
Việt Nam”, chắc chắn là còn nhiều thiếu sót, nhưng khả dĩ cũng giúp cho người
đọc có thể nhìn lại một phần nhỏ quá khứ của miền Nam Việt Nam, của QLVNCH một
quân đội dũng mãnh đã từng đứng đầu ở Đông Nam Á nhưng phải chịu đựng một số
phận cay nghiệt do chính Tổng Tư Lệnh gây ra, và của MACV một phái bộ quân sự
Mỹ đã trợ giúp QLVNCH lớn mạnh hơn trong mọi lãnh vực chuyên môn, tác chiến của
tất cả các quân-binh-chủng.
Rõ ràng đã có một sự liên đới, một tình cảm anh-em-đồng-đội giữa QLVNCH và MACV. Cả hai QLVNCH và MACV đã luôn luôn tôn trọng bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và Tình Người. Như đã nói ở phần trên, sự ra đi vội vã của Ông Martin và sau đó vài giờ trong buổi sáng 30/4/1975, ông TT VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CSVN và với tư cách Tổng Tư Lệnh đã giải tán QLVNCH, một quân đội không thực sự được tác chiến sau khi ngưng bắn, đã chịu thua dễ dàng!
Rõ ràng đã có một sự liên đới, một tình cảm anh-em-đồng-đội giữa QLVNCH và MACV. Cả hai QLVNCH và MACV đã luôn luôn tôn trọng bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và Tình Người. Như đã nói ở phần trên, sự ra đi vội vã của Ông Martin và sau đó vài giờ trong buổi sáng 30/4/1975, ông TT VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CSVN và với tư cách Tổng Tư Lệnh đã giải tán QLVNCH, một quân đội không thực sự được tác chiến sau khi ngưng bắn, đã chịu thua dễ dàng!
Như vậy rất rõ ràng là
sau hai năm MACV và tất cả các đơn vị tác chiến Mỹ và Đồng Minh đã hoàn toàn
“về-nước-trong-danh-dự”, thì chính phủ VNCH mới bị sụp đổ, QLVNCH mới bị giải
tán, và cái hình ảnh chiếc trực thăng di tản trên nóc Toà Đại Sứ Mỹ trong ngày
29/4/1975 đã được CSVN dùng để tuyên truyền cho cuộc chiến
“giải-phóng-miền-Nam-Việt-Nam-đại-thắng” đối chiếu với sự thất bại của
“đế-quốc-Mỹ-xâm-lược”.
Có một câu hỏi vẫn còn nhức nhối trong tâm tư từ ngày 30/4/1975 cho tới nay đã hơn 40 năm là “Chính Phủ VNCH bị sụp đổ, QLVNCH bị giải tán, nước VNCH bị mất tên trên bản đồ thế giới bởi Cái-Gì đã gây ra?” Bởi vì sự thiếu hụt Tiền VN, Vàng, Đô Mỹ? Cho tới ngày 30/4/1975 những thứ này vẫn còn đầy trong các kho bạc của Ty Ngân Khố ở các tỉnh, các ngân hàng tỉnh, và Ngân Hàng Quớc Gia Việt Nam tại Sài Gòn. Nếu nói Chính Phủ VNCH đã bị sụp đổ vì “không-có-tiền” là nói hài hước châm biếm cay độc, vì cái chính phủ cộng sản quản lý miền Nam VN vào thời gian kế tiếp đó “đã đổi 500 đồng VNCH lấy 1 đồng CS Bắc Việt”! Như vậy, trên thực tế Chính Phủ VNCH đã có rất nhiều tiền, vàng, và đô la để ở trong kho của các Ty Ngân Khố và Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam.
Có một câu hỏi vẫn còn nhức nhối trong tâm tư từ ngày 30/4/1975 cho tới nay đã hơn 40 năm là “Chính Phủ VNCH bị sụp đổ, QLVNCH bị giải tán, nước VNCH bị mất tên trên bản đồ thế giới bởi Cái-Gì đã gây ra?” Bởi vì sự thiếu hụt Tiền VN, Vàng, Đô Mỹ? Cho tới ngày 30/4/1975 những thứ này vẫn còn đầy trong các kho bạc của Ty Ngân Khố ở các tỉnh, các ngân hàng tỉnh, và Ngân Hàng Quớc Gia Việt Nam tại Sài Gòn. Nếu nói Chính Phủ VNCH đã bị sụp đổ vì “không-có-tiền” là nói hài hước châm biếm cay độc, vì cái chính phủ cộng sản quản lý miền Nam VN vào thời gian kế tiếp đó “đã đổi 500 đồng VNCH lấy 1 đồng CS Bắc Việt”! Như vậy, trên thực tế Chính Phủ VNCH đã có rất nhiều tiền, vàng, và đô la để ở trong kho của các Ty Ngân Khố và Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam.
Hơn nữa, đối với chiến
tranh Việt Nam mặc dù có chung một mục đích bảo vệ Tự Do, nhưng tâm lý của
người Mỹ khác với tâm lý của người Việt. Trong khi người Việt đã có “những cuộc
xung đột vũ trang như một cuộc nội chiến” để tranh giành quyền lực lãnh đạo xã
hội Việt Nam theo mô hình phàt triển cộng sản hay mô hình phát triển tư bản,
thì người Mỹ đã nhìn thấy nó như một “chiến tranh khu vực bành trướng chủ nghĩa
cộng sản ở Đông Nam Á” sau khi người Mỹ đã thành công ngăn chặn Bắc Hàn và
Trung Cộng ở khu vực Đông Á. Nói cụ thể là Chính Phủ Mỹ đã không muốn nước VNCH
ngã xuống làm các nước khác ở Đông Nam Á ngã theo, và cái quan niệm này khiến
cho người Mỹ nghĩ rằng “Mỹ đánh CSVN dùm cho VNCH” khi CSVN là tên
“lính-xung-kích-cộng-sản-quốc-tế” của Trung Cộng-Liên Sô. CSVN luôn xác định là
một nước VN có miền Nam VN bị đế quốc Mỹ chiếm đóng, trong khi Mỹ và VNCH luôn
xác định là “hai nước VN”như Nam Hàn-Bắc Hàn, Đông Đức-Tây Đức, vấn đề thống
nhất đất nước được thảo luận, thương lượng sau khi đã ngưng bắn, ký kết hiệp định
hoà bình.
Vấn đề tranh giành
quyền lực lãnh đạo xã hội, quản lý đất nước được giải quyết bằng những phương
tiện ôn hoà bầu cử ứng cử dân chủ tự do; ngược lại, không được áp dụng bạo lực
cách mạng bằng súng đạn cưỡng đoạt chính quyền. Có hiểu như vậy mới hiểu tâm lý
của người Mỹ là sau khi có Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 thì “họ đã yên tâm để
cho người Việt có quyền tự quyết định, tự chọn lựa chính thể giữa cộng hoà và
cộng sản, tự giải quyết vấn đề thống nhất nước VN trong hoà bình.” Đối với
người Mỹ thì Chiến Tranh Đông Dương II hay Chiến Tranh VN đã chính thức chấm
dứt, vì cả khu vực Đông Nam Á được ổn định lâu dài tiếp theo đó. Có hiểu tâm lý
của người Mỹ như thế mới nhận thấy được CSVN đã sai lầm khi muốn
“làm-nhục-người-Mỹ”, nhất là những quân nhân Mỹ đã phục vụ tại VN và MACV, bởi
vì họ đã làm xong nhiệm vụ của họ rất tốt.
Chính Phủ VNCH của TT
Minh và ThT Mẫu đã bị sụp đổ nhanh chóng trong một ngày bởi vì cả hai TT Minh
và ThT Mẫu đã bị CSVN lường gạt họ. Chính Phủ VNCH của TT Minh và ThT Mẫu đã
yêu cầu Ông Đại Sứ Mỹ và tất cả người Mỹ phải lập tức rời khỏi nước VNCH trong
thởi hạn 24 giờ đồng hồ để người Việt, gồm có VNCH và CSVN, giải quyết vấn đề
nội bộ với nhau. Người Mỹ không được phép xen vào chuyện nội bộ của người Việt!
Tuy nhiên, CSVN đã xảo quyệt lừa gạt hai ông Minh và Mẫu, khi bắt buộc hai ông
này đầu hàng vô điều kiện.
Đối với rất nhiều người
thì cuộc di tản ngày 29/4/1975 “hổn loạn kinh khủng”. Lẽ tất nhiên là phải “hổn
loạn kinh khủng” vì có quá đông người phải ra đi trong thời hạn ngắn 24 giờ
đồng hồ. Cũng có lẽ cái lệnh của ông ThT Mẫu “đuổi-nhà-ông-đại-sứ-Mỹ” đã được
loan đi lặp lại nhiều lần trên làn sóng phát thanh của đài Sài Gòn làm cho toàn
thể người dân miền Nam Việt Nam lúc đó rất hoảng hốt lo sợ, và đã có rất nhiều
người dân miền nam bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, tài sản, thân nhân của mình để
vượt biên lánh nạn cộng sản ngay trong ngày 29/4/1975./.
Nguyễn Thành
Trí, Sài Gòn 29/4/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét