Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

VIỆT NAM THUỘC ĐỊA MỚI CỦA TÀU CỘNG

VIỆT NAM THUỘC ĐỊA MỚI CỦA TÀU CỘNG
Nguyễn Thành Trí


Đảng Việt Cộng đã trình diễn xong một màn độc diễn, độc thoại “Hài Kịch Chính Trị Việt Cộng”, bởi vì cho dù ai là tổng bí thư, đảng trưởng, chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng, thực chất của họ cũng đều là các quan Thái Thú của mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng để tiếp tục kèm kẹp người dân Việt Nam, thống trị nước Việt Nam vẫn còn là một thuộc địa kiểu mới bị lệ thuộc Bắc Kinh, bởi vì Việt Cộng vẫn còn cho rằng dân trí, sức hiểu biết của người dân Việt Nam chậm tiến, ngu muội, đần độn chưa biết rõ đất nước của họ thực sự đã đang là một thuộc địa kiểu mới của Hoa Lục Tàu Cộng. Đảng Việt Cộng cứ tiếp tục làm theo kinh nghiệm phát triển độc tài đảng trị của Hoa Lục Tàu Cộng.

Chúng ta là người Việt Nam, Công Dân Việt Nam đang ở trong nước, tại sao chúng ta lại không nhìn thẳng vào hiện tại của nước Việt Nam để nói lên một sự thật dưới chế độ độc tài đảng trị của đảng Việt Cộng đã đang là một đảng chư hầu của đảng Tàu Cộng và làm cho nước Việt Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới của đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng?  Chẳng lẽ người Việt Nam còn chờ những người nước ngoài ở nơi nào sẽ nói hộ, làm giùm chuyện của chính người Việt Nam?

Vì nhiều người Việt Nam cho tới bây giờ còn tỏ vẻ chưa hiểu hết hiện trạng nước Việt Nam là một “Thuộc Địa Kiểu Mới” của “Đế Quốc Hoa Lục Tàu Cộng”, vậy chúng ta cũng nên nhắc lại cái tính chất chính sách của một nước lớn như Hoa Lục Tàu Cộng áp dụng lên một nước nhỏ như Việt Nam để khống chế về chính trị - nhất là Tàu Cộng và Việt Cộng có cùng một ý thức hệ cộng sản - đồng thời Tàu Cộng đã đang ngấm ngầm bí mật có quyền khai thác toàn phần về kinh tế thương mại, cũng như Tàu Cộng đã đang có thể gây ảnh hưởng mạnh và lâu dài về văn hóa-giáo dục-đào tạo của Việt Cộng, và sử dụng lãnh thổ Việt Nam như một bàn đạp để mở rộng vùng kiểm soát địa chính trị trong khu vực Đông Nam Á.

Rất rõ ràng trên thực tế nước Việt Nam dưới sự cai trị độc tài đảng trị của một đảng Việt Cộng đã đang mất hết chủ quyền quốc gia, vì đảng Tàu Cộng đã rõ ràng hoàn toàn khống chế đảng Việt Cộng để chi phối nặng nề lên sự lãnh đạo đảng và quản lý nhà nước, nhân sự chính phủ, và kể cả chỉ huy quân đội Việt Nam. Người ta có thể nói chắc chắn rằng đảng Việt Cộng là một đảng chư hầu tay sai của đảng Tàu Cộng; sự thật rõ ràng không cần phải bàn cãi gì nữa.

Hơn ai hết, chính là đảng Tàu Cộng đã không muốn nhìn thấy một nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ và đoàn kết lại thành một lực lượng mạnh chống lại sự xâm lăng của một đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng. Chính là đảng Tàu Cộng đã sử dụng đảng Việt Cộng để gây chia rẽ trong toàn thể Nhân Dân Việt Nam. Mặc dù đảng Việt Cộng luôn miệng kêu gọi người dân Việt Nam “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, nhưng họ cứ tiếp tục có những hành động ngược lại để làm cho các thành phần người dân Việt Nam bị phân hoá trong một xã hội Việt Nam bị băng hoại trầm trọng để dễ cai trị.

Có những sự kiện rõ rệt hiển nhiên chứng minh được đảng Việt Cộng hoàn toàn bị lệ thuộc vào đảng Tàu Cộng, đó là họ đã bắt giam những người Việt Nam tỏ thái độ chính trị chống đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng xâm lược. Chỉ là một bè lũ tay sai nguỵ quyền Việt Cộng không dám có hành động mạnh chống đối lại mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng, nên bọn chúng chỉ có những phản ứng nhẹ bằng lời phản đối chiếu lệ có mục đích che mắt, tiếp tục lường gạt người dân Việt Nam.

Đã qua 41 năm Bắc Việt Cộng đã thống nhất nước Việt Nam bằng một cuộc lường gạt, lường gạt đối phương VNCH và kể cả lường gạt những người anh em Nam Việt Cộng cộng tác với họ. Sau khi chấm dứt chiến tranh VN, giữa hai miền Nam-Bắc VN cũng cần phải có một thời gian ổn định, chuyển tiếp thích hợp để thống nhất trong hoà bình.  Ngược lại, Bắc Việt Cộng đã tạo ra một chiến thắng quân sự gian xảo bằng cách cưỡng chiếm chính quyền VNCH, ép buộc đối phương đầu hàng thay vì thực hiện một giải pháp chính trị, và rồi sau đó xoá bỏ Nam Việt Cộng.  Điều này cũng chứng tỏ sự thiếu tự tin vào bản lĩnh chính trị và chính nghĩa của đảng Việt Cộng khi Nhân Dân Miền Nam VN thực hiện quyền Dân Tộc Tự Quyết, quyền tự do chọn lựa chính thể giữa cộng sản độc tài và cộng hòa tự do. Đảng Việt Cộng đã gian manh xảo quyệt cưỡng chiếm chính quyền VNCH, nhưng họ không thể chiếm được lòng tin yêu của toàn thể người dân Việt Nam để thống nhất trái tim và khối óc của người Việt Nam. Điều này cho tới nay đã đang được chứng minh rõ ràng nguỵ quyền Việt Cộng là tay sai của đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng, và thực sự không có Lập Trường Độc Lập Dân Tộc, Tự Do Việt Nam. 

Hiện tại đảng Việt Cộng được sự bao che, trợ giúp, huấn luyện, và nuôi dưỡng của đảng Tàu Cộng mà cả hai bè lũ cầm quyền ở mẫu quốc Hoa Lục và thuộc địa Việt Nam đều chủ trương độc tài đảng trị, độc tôn và độc quyền lãnh đạo xã hội, không chấp nhận có sinh hoạt chính trị đa đảng thực sự đối lập, chia sẻ quyền lực, thì tình trạng hòa giải quốc gia, hòa hợp dân tộc rất khó thực hiện ở cả hai nơi Hoa Lục và Việt Nam. Trên thực tế ở Hoa Lục đã đang thực sự không có cuộc sống hài hoà, bình đẳng, phát triển đồng đều giữa các nhóm chủng tộc lớn như Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Cũng như ở Việt Nam sự hoà hợp dân tộc chưa bao giờ thực sự được thực hiện triệt để, nghiêm chỉnh. Ở Hoa Lục và Việt Nam chỉ có toàn là những hình ảnh người dân tộc thiểu số trong bộ quần áo màu sắc rực rỡ tốt đẹp phải được chụp hình vào dịp ngày lễ hội trong nước để tuyên truyền cho chế độ Tàu Cộng và Việt Cộng; hoàn toàn khác với thực tế của người dân tộc thiểu số ở Hoa Lục và Việt Nam đã đang chịu đựng nghèo khổ đói khát.

Chúng ta hãy khách quan xem xét tình hình hiện tại của Hoa Lục và Đài Loan, trong khi Đài Loan là một đảo quốc đang có một nền kinh-tài vững mạnh, một quân đội hùng hậu, một nền chính trị dân chủ và Lập Trường Dân Tộc Độc Lập, Tự Do Đài Loan kiên định mới có đủ sức mạnh đấu tranh và thương lượng hòa giải với đảng Tàu Cộng khi có cải tổ chính trị ở Hoa Lục. Một cách rõ ràng cụ thể vào ngày 16/1/2016 toàn thể Nhân Dân Đài Loan đã tỏ thái độ dứt khoát chống lại sự lệ thuộc Bắc Kinh; họ đã tích cực ủng hộ lập trường độc lập dân tộc, Một Đài Loan Một Hoa Lục, và đã bầu cử cho nữ Tổng Thống Tsai Ing-wen (Thái Anh-Vân) và Quốc Hội Đài Loan có đa số đại biểu thuộc Đảng Dân Tiến có lập trường tự do, độc lập dân tộc Đài Loan. Như vậy là quá rõ ràng Đảo Quốc Đài Loan độc lập, tự do, dân chủ đã đang và sẽ không lệ thuộc Hoa Lục Tàu Cộng độc đảng, độc tài đảng trị.

Tại sao Đài Loan đã có thể thành công không lệ thuộc Bắc Kinh, vì Đài Loan có sinh hoạt chính trị đa đảng, tự do, dân chủ, và lập trường độc lập Dân Tộc Đài Loan. Tại sao Việt Nam đã đang và sẽ còn lệ thuộc Bắc Kinh, vì Việt Cộng có cùng một ý thức hệ cộng sản với Tàu Cộng, ở cả hai nơi Việt Nam và Hoa Lục đều không có sinh hoạt chính trị đa đảng, tự do, và dân chủ. Hơn nữa, những tay Việt Cộng cầm quyền ở nước Việt Nam vẫn còn nổ lực duy trì chế độ độc tài đảng trị để tiếp tục áp bức, kèm kẹp người dân Việt Nam.  Một cách rõ ràng cụ thể như cuộc bầu cử những người lãnh đạo đảng Việt Cộng và quản lý nhà nước, chính phủ Việt Nam trong tuần lễ vừa qua không có sự trực tiếp tham gia bầu cử của người dân Việt Nam; không có tự do ứng cử bầu cử như ở đảo quốc Đài Loan.   

Như vậy, đảng Việt Cộng đã trình diễn xong một màn độc diễn, độc thoại “Hài Kịch Chính Trị Việt Cộng”, bởi vì cho dù ai là tổng bí thư, đảng trưởng, chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng, thực chất của họ cũng đều là các quan Thái Thú của mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng để tiếp tục kèm kẹp người dân Việt Nam, thống trị nước Việt Nam vẫn còn là một thuộc địa kiểu mới bị lệ thuộc Bắc Kinh, bởi vì họ vẫn còn cho rằng dân trí, sức hiểu biết của người dân Việt Nam chậm tiến, ngu muội, đần độn chưa biết rõ đất nước của họ thực sự đã đang là một thuộc địa kiểu mới của Hoa Lục Tàu Cộng. Đảng Việt Cộng cứ tiếp tục làm theo kinh nghiệm phát triển độc tài đảng trị của Hoa Lục Tàu Cộng./.

Nguyễn Thành Trí, Sài Gòn 30/1/2016

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016

NHÌN THẲNG HIỆN TẠI VIỆT NAM

NHÌN THẲNG HIỆN TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thành Trí


Nhìn lui, nhìn tới, sao không nhìn thẳng hiện tại Việt Nam?
“Nhìn Lui” là xem xét lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, và nhiều người đã đang “nhìn lui” để có đủ thứ kết luận. “Nhìn Tới” là dự đoán những chuyện sẽ xảy đến trong tương lai gần hay xa, và nhiều người cũng đã đang “nhìn tới” để có đủ loại tiên tri. Tại sao rất nhiều người lại không “Nhìn Thẳng” hiện tại của Việt Nam để nói lên sự thật dưới chế độ độc tài đảng trị của đảng Việt Cộng đã đang là một đảng chư hầu của đảng Tàu Cộng và làm cho nước Việt Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới của đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng?

Vì nhiều người Việt Nam cho tới bây giờ còn chưa hiểu hết hiện trạng nước Việt Nam là một “Thuộc Địa Kiểu Mới” của “Đế Quốc Hoa Lục Tàu Cộng”, nên xin nhắc lại cái tính chất chính sách của một nước lớn như Hoa Lục Tàu Cộng áp dụng lên một nước nhỏ như Việt Nam để khống chế về chính trị, nhất là Tàu Cộng và Việt Cộng có cùng một ý thức hệ cộng sản: đồng thời Tàu Cộng có quyền khai thác toàn phần về kinh tế thương mại, gây ảnh hưởng lâu dài về văn hóa-giáo dục-đào tạo, và mở rộng vùng kiểm soát địa chính trị. Trên thực tế nước Việt Nam dưới sự cai trị độc tài đảng trị của một đảng Việt Cộng đã đang mất hết chủ quyền quốc gia, vì đảng Tàu Cộng đã rõ ràng hoàn toàn khống chế đảng Việt Cộng để chi phối nặng nề lên sự lãnh đạo đảng và quản lý nhà nước, kể cả chỉ huy quân đội Việt Nam. Người ta có thể nói chắc chắn rằng đảng Việt Cộng là một đảng chư hầu tay sai của đảng Tàu Cộng; sự thật rõ ràng không cần phải bàn cãi gì nữa.

Hơn ai hết, chính là đảng Tàu Cộng đã không muốn nhìn thấy một nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ và đoàn kết lại thành một lực lượng mạnh chống lại sự xâm lăng của một đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng. Chính là đảng Tàu Cộng đã sử dụng đảng Việt Cộng để gây chia rẽ trong toàn thể Nhân Dân Việt Nam. Mặc dù đảng Việt Cộng luôn miệng kêu gọi “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, nhưng họ luôn luôn có những hành động ngược lại để làm cho các thành phần người dân Việt Nam bị phân hoá trong một xã hội Việt Nam bị băng hoại trầm trọng để dễ cai trị.

Có những sự kiện rõ rệt hiển nhiên chứng minh được đảng Việt Cộng hoàn toàn lệ thuộc đảng Tàu Cộng là họ đã bắt giam những người Việt Nam tỏ thái độ chính trị chống đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng xâm lược. Chỉ là một bè lũ tay sai tà quyền Việt Cộng không dám có hành động mạnh chống đối lại mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng, nên bọn chúng chỉ có những phản ứng nhẹ bằng lời phản đối chiếu lệ có mục đích che mắt, tiếp tục lừa gạt người dân Việt Nam. Nếu nói về sự lừa gạt thì đảng Việt Cộng đã đang có một quá trình lừa gạt người dân Việt Nam rất nhiều năm, và đạt thành tích mị dân xuất sắc nhất.

Tính chất gian manh xảo quyệt của đảng Việt Cộng đã lên tới đỉnh cao của nó bằng cái hình ảnh chiếc xe tăng chính qui Bắc Việt Cộng ngụy trang treo cờ Mặt Trận DTGPMNVN chạy vào cổng Dinh Độc Lập của VNCH trong buổi trưa ngày 30/4/1975.  Trong lúc đó Miền Nam Việt Nam có một giải pháp chính trị giữa hai chính phủ VNCH và CMLTCHMNVN được các bên có liên quan hứa hẹn thực hiện trong những ngày cuối tháng 4/1975, và đây chính là sự chân thành tin tưởng của ông Đại Sứ Mỹ Martin ở Sài Gòn được thể hiện trong nội dung bức điện văn gởi cho ông Kissinger trong ngày 28/4/1975 nói rõ rằng “Người Mỹ sẽ có thể ở lại Việt Nam thêm một năm hoặc lâu hơn nữa”.

Ông ĐS. Martin đã không ngờ được những người cầm quyền đảng Việt Cộng tráo trở lật lọng đã lừa gạt mọi người khi họ bắt buộc Tổng Thống Dương Văn Minh VNCH đầu hàng vô điều kiện, phải giải tán QLVNCH, và nhất là Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu VNCH đã ra lệnh cho “tất cả người Mỹ phải rời khỏi VN trong thời hạn 24 giờ trong ngày 29/4/1975 để người Việt miền Nam VN tự giải quyết chuyện nội bộ với nhau”. Một sự kiện lịch sử quan trọng, một sự thật mà đảng Việt Cộng không dám nói tới vì nó chứng minh được tính chất gian manh, xảo trá, lường gạt của đảng Việt Cộng.

Thực chất của đảng Việt Cộng là “bên thắng cuộc” rõ ràng gian manh, xảo trá, lường gạt cả đối phương lẫn người cộng tác với mình, vì chính phủ Nam Việt Cộng CMLTCHMNVN cũng bị xóa bỏ tiếp theo đó. Vì vậy đảng Việt Cộng đã khiến cho người dân Việt Nam nghi ngờ, e ngại cái ý nghĩa chân chính của nhóm từ ngữ “quyền dân tộc tự quyết, hòa giải quốc gia, hòa hợp dân tộc” do đảng Việt Cộng chủ trương luôn miệng kêu gọi thực hiện.

Cũng có lẽ đảng Việt Cộng kêu gọi hòa giải với các nước cựu thù là Pháp và Mỹ, vì trên những tờ báo quốc doanh hay báo đảng đều có đăng những hình ảnh cựu bộ đội Bắc Việt Cộng ôm hay bắt tay chào mừng cựu chiến binh Mỹ sang thăm lại Việt Nam. Tuy nhiên, chưa bao giờ được thấy hình ảnh người lính cộng sản VN ôm hoặc nắm tay người lính cộng hòa VN! Bởi vì những chính sách độc tài đảng trị phân biệt đối xử của đảng Việt Cộng đã đang khiến cho cuộc nội chiến quốc-cộng vẫn còn kéo dài thêm từ 30/4/1975 cho tới nay.  Hơn nữa, khi đảng Việt Cộng đã hoà giải với các nước cựu thù là Mỹ và Pháp, thì đảng Việt Cộng không phải sửa đổi cái Hiến Pháp XHCN Việt Cộng của họ.  Trong khi đảng Việt Cộng thực sự thành tâm, thiện chí hoà giải với các đảng phái quốc gia, và những người bất đồng chính kiến ở trong nước Việt Nam, thì đảng Việt Cộng phải tu chỉnh hiến pháp, và chấp nhận việc sinh hoạt chính trị tự do, đa đảng, đối lập chính kiến, dân chủ thực sự, tự do bầu cử ứng cử như ở Đảo Quốc Đài Loan hiện nay.

Đã qua 41 năm nước Việt Nam đã thống nhất bằng một cuộc lường gạt, lường gạt đối phương và kể cả lường gạt những người anh em Miền Nam cộng tác với họ. Họ đã tạo ra một chiến thắng quân sự bằng cưỡng chiếm chính quyền VNCH, ép buộc đối phương đầu hàng thay vì thực hiện một giải pháp chính trị. Điều này cũng chứng tỏ sự thiếu tự tin vào bản lĩnh chính trị và chính nghĩa của đảng Việt Cộng khi Nhân Dân Miền Nam VN thực thi quyền Dân Tộc Tự Quyết, quyền tự do chọn lựa chính thể giữa cộng sản độc tài và cộng hòa tự do. Đảng Việt Cộng đã cưỡng chiếm chính quyền VNCH nhưng không thể chiếm được lòng của toàn thể người dân Việt Nam để thống nhất nhân tâm, và điều này cho tới nay đã đang được chứng minh rõ ràng là Tà Quyền Việt Cộng tay sai của đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng nên bọn chúng thực sự không có Lập Trường Độc Lập Dân Tộc, Tự Do Việt Nam. 

Trong khi ở Việt Nam thì đảng Việt Cộng hiện có đầy đủ quân đội và công an đã đang được sử dụng như những công cụ đắc lực để bảo vệ đảng Việt Cộng, nói chính xác cụ thể là để bảo vệ những đảng viên Việt Cộng đang cầm quyền với những đặc quyền, đặc lợi của họ. Nếu họ kêu gọi hòa giải quốc gia mà họ vẫn giữ độc quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, họ kêu gọi hòa hợp dân tộc mà họ vẫn còn có những chính sách phân biệt đối xử giữa các thành phần nhân dân và các dân tộc thiểu số, thì rõ ràng là họ vẫn còn gian manh xảo trá lường gạt toàn thể người dân Việt Nam.

Hiện tại đảng Việt Cộng được sự bao che, trợ giúp, huấn luyện, và dung dưỡng của đảng Tàu Cộng mà cả hai bè lũ cầm quyền ở mẫu quốc Hoa Lục và chư hầu Việt Nam đều chủ trương độc tài đảng trị, độc tôn và độc quyền lãnh đạo xã hội, không chấp nhận có sinh hoạt chính trị đa đảng thực sự đối lập, chia sẻ quyền lực, thì tình trạng hòa giải quốc gia, hòa hợp dân tộc rất khó thực hiện ở cả hai nơi Hoa Lục và Việt Nam. Trên thực tế ở Hoa Lục đã đang thực sự không có cuộc sống hài hoà, bình đẳng, phát triển đồng đều giữa các nhóm chủng tộc lớn như Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Cũng như ở Việt Nam sự hoà hợp dân tộc chưa bao giờ thực sự được thực hiện triệt để, nghiêm chỉnh. Ở Hoa Lục và Việt Nam chỉ có toàn là những hình ảnh người dân tộc thiểu số trong bộ quần áo màu sắc rực rỡ tốt đẹp phải được chụp hình vào dịp ngày lễ hội trong nước để tuyên truyền cho chế độ Tàu Cộng và Việt Cộng.

Chúng ta hãy khách quan xem xét tình hình hiện tại của Hoa Lục và Đài Loan, trong khi Đài Loan là một đảo quốc đang có một nền kinh-tài vững mạnh, một quân đội hùng hậu, một nền chính trị dân chủ và Lập Trường Dân Tộc Độc Lập, Tự Do Đài Loan kiên định mới có đủ sức mạnh đấu tranh và thương lượng hòa giải với đảng Tàu Cộng khi có cải tổ chính trị ở Hoa Lục. Một cách rõ ràng cụ thể vào ngày 16/1/2016 toàn thể Nhân Dân Đài Loan đã tỏ thái độ dứt khoát chống lại sự lệ thuộc Bắc Kinh; họ đã tích cực ủng hộ lập trường độc lập dân tộc, Một Đài Loan Một Hoa Lục, và đã bầu cử cho nữ Tổng Thống Tsai Ing-wen (Thái Anh-Vân) và Quốc Hội Đài Loan có đa số đại biểu thuộc Đảng Dân Tiến có lập trường tự do, độc lập dân tộc Đài Loan. Như vậy là quá rõ ràng Đảo Quốc Đài Loan độc lập, tự do, dân chủ đã đang và sẽ không lệ thuộc Hoa Lục Tàu Cộng độc đảng, độc tài đảng trị.

Tại sao Đài Loan đã có thể thành công không lệ thuộc Bắc Kinh, vì Đài Loan có sinh hoạt chính trị đa đảng, tự do, dân chủ, và lập trường độc lập Dân Tộc Đài Loan. Tại sao Việt Nam đã đang và sẽ còn lệ thuộc Bắc Kinh, vì Việt Cộng có cùng một ý thức hệ cộng sản với Tàu Cộng, ở cả hai nơi Việt Nam và Hoa Lục đều không có sinh hoạt chính trị đa đảng, tự do, và dân chủ. Hơn nữa, những tay Việt Cộng cầm quyền ở nước Việt Nam vẫn còn nổ lực duy trì chế độ độc tài đảng trị để áp bức, kèm kẹp người dân Việt Nam.  Một cách rõ ràng cụ thể như cuộc bầu cử những người lãnh đạo đảng Việt Cộng và quản lý nhà nước, chính phủ Việt Nam trong tuần lễ vừa qua không có sự trực tiếp tham gia bầu cử của người dân Việt Nam.  Như vậy, đảng Việt Cộng đã trình diễn xong một màn “Hài Kịch Chính Trị Việt Cộng” vì cho dù ai là tổng bí thư, đảng trưởng, chủ tịch nước, thủ tướng, cũng đều là các quan Thái Thú của Tàu Cộng để thống trị kèm giữ nước Việt Nam vẫn còn bị lệ thuộc Bắc Kinh, tiếp tục làm theo kinh nghiệm phát triển của Hoa Lục Tàu Cộng.

Đã qua 41 năm (1975-2016) một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc Việt Nam gồm có sự tham gia của những đại diện tất cả các đảng phái chính trị Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài và đại diện tất cả các chủng tộc sinh sống ở Việt Nam cùng nhau làm việc vì lợi ích của tổ quốc Việt Nam vẫn còn là một yêu cầu, nguyện vọng tha thiết của toàn thể Nhân Dân Việt Nam. Khi chia sẻ quyền lực lãnh đạo xã hội Việt Nam thì sẽ chấm dứt tình trạng độc tôn, độc quyền, độc tài đảng trị và xóa bỏ sự nô lệ ý thức hệ ngoại bang Tàu Cộng.  Như vậy toàn thể người dân Việt Nam có thể cùng nhau xây dựng một Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc Việt Nam./.


Nguyễn Thành Trí, Sài Gòn 29/1/2016

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

KỶ NIỆM 43 NĂM HIỆP ĐỊNH HOÀ BÌNH PARIS 1973

KỶ NIỆM 43 NĂM HIỆP ĐỊNH HOÀ BÌNH PARIS 1973 
                                       27/1/1973 – 27/1/2016 


KỶ NIỆM 43 NĂM HIỆP ĐỊNH HOÀ BÌNH
                                            PARIS 1973                                            
27/1/1973 – 27/1/2016
Nguyễn Thành Trí

Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 có ghi rõ ràng một sự kiện lịch sử quan trọng đó là Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc Việt Nam. Cho tới nay 27/1/2016 là 43 năm đã trôi qua, và sự thật của sự kiện lịch sử này vẫn còn nguyên đó, bởi vì các yêu cầu chính đáng và nguyện vọng tha thiết của Nhân Dân Việt Nam vẫn chưa được những Người-Có-Trách-Nhiệm-Với-Nhân-Dân-Việt-Nam đáp ứng thích đáng, thoả mãn cho họ!

Ngày 27 tháng Giêng hàng năm là ngày kỷ niệm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở ba nước Việt-Miên-Lào.  Nói là ngày kỷ niệm vì nó gợi nhớ lại nỗi vui mừng của hầu hết mọi người Việt Nam từ Bắc xuống Nam.  Một cách giản dị là đối với người dân hai miền Nam-Bắc Việt Nam thì họ rất mừng vui khi biết chắc là sẽ không còn những đợt ném bom khủng khiếp ở miền bắc, những trận pháo kích vào thành phố miền nam, những cuộc chạm súng bắn giết lẫn nhau mỗi ngày, mỗi đêm trong suốt 28 năm nội chiến quốc-cộng.  Ở giữa hai lằn đạn bom thì người thường dân Việt Nam mới đúng là một thành phần dân tộc đã phải chịu nhiều tổn thất sinh mạng đau thương nhất, nên họ mừng vui nhất khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. 

Người ta có thể nói rằng trong cuộc xung đột đẫm máu giữa hai chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cộng sản, ở trong nước Việt Nam cũng còn có Chủ Nghĩa Dân Tộc Độc Lập của khối đại đa số thường dân phải chịu đựng sự tranh giành quyền lực lãnh đạo xã hội của hai lực lượng quốc-cộng.  Ở trong nước Việt Nam có những sự kiện lịch sử cho thấy một sự thật bi đát là cả hai chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cộng sản đều có sức mạnh lực lượng vũ trang; còn Chủ Nghĩa Dân Tộc Độc Lập không có súng đạn, không có bạo lực, chỉ có Sức Mạnh Công Dân và Quyền Dân Tộc Tự Quyết nhưng chưa bao giờ thực sự được thực hiện!  

Không nói tới vùng phụ cận là hai nước Miên-Lào, ở trong nước Việt Nam người ta đã nhận ra một sự thật là không thể có một chiến thắng quân sự bằng “Biển Người Lính Cộng Sản Bắc Việt tràn ngập những Đồn Bót Miền Nam” và cũng không thể chiến thắng bằng cách “Ném Bom cho Miền Bắc trở thành Thời Kỳ Đồ Đá”.  Một chiến thắng quân sự chỉ có thể chiếm đóng lãnh thổ miền Bắc hoặc miền Nam, nhưng không thể chiếm được trái-tim và khối-óc của người dân Việt Nam.  Vì vậy để giải quyết tận gốc rễ của cuộc xung đột quốc-cộng đã đẫm máu của quá nhiều người, kéo dài trong một thời gian quá lâu, với con số tổn thất nhân mạng quá cao, không riêng gì của người Việt Nam trong cả nước, mà phải kể cả của người Miên, người Lào, và người Ngoại-Nhập nói chung; một giải pháp chính trị cần phải được các bên tham chiến đồng ý chấp thuận thi hành nghiêm chỉnh và triệt để.

Để đánh dấu một ngày kỷ niệm đẹp mà toàn thể người dân Việt Nam có được sau bao nhiêu ngày tháng năm đau khổ chịu đựng một cuộc nội chiến huynh-đệ tương tàn đẫm máu của chính mình, hoặc của cha mẹ, anh em, bà con, bạn thân, láng giềng, các nhạc sĩ miền Nam Việt Nam đã viết ra những bản nhạc có lời ca xưng tụng hoà bình và ca ngợi tình yêu đôi lứa của những chiến binh còn sống sót trở về với gia đình, với vợ con, hay có lời ca kêu gọi, cổ võ sự thương yêu, tha thứ, bao dung, hoà hợp anh em bạn bè của các bên tham chiến, khi tàn cơn khói lửa bỏ vũ khí xuống còn sống về quê vui mừng gặp lại nhau. 

Cũng có một tấm hình chụp hai người lính tác chiến của bộ đội cộng sản miền Bắc và quân đội cộng hoà miền Nam đang khoác tay choàng cổ cười vui với nhau khi có lệnh ngưng bắn tại chỗ vì có Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 đã có hiệu lực.  Đó là những dữ kiện lịch sử khách quan, sự kiện lịch sử quan trọng đáng nhớ, sự thật không thể chối cãi hay sửa đổi những cảm xúc chân thật của người lính Việt Nam ở cả hai bên chiến tuyến, những tình cảm dân tộc của người dân Việt Nam ở trong cả nước lương thiện, trung thực, có thật không thể dùng lời ngụy biện xuyên tạc, tuyên truyền “thắng-cuộc, thua-cuộc” một cách hàm hồ dối trá nhằm “bốc-thơm-bốc-phét” cho riêng một phía, bởi vì “Hoà Bình Trong Danh Dự” khi Bốn Bên Lâm Chiến tại Việt Nam đã đồng thuận chấm dứt “chiến-tranh-không-có-kẻ-thắng-người-thua” để lập lại hoà bình lâu dài trên cả ba nước Việt-Miên-Lào.

Riêng ở miền Nam Việt Nam sẽ được giải quyết tranh chấp quyền lực lãnh đạo chính phủ miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến bằng một giải pháp chính trị, ôn hoà không bạo động, được thực hiện qua một cuộc tổng tuyển cử tự do có tổ chức quốc tế giám sát. Căn cứ vào dữ kiện lịch sử của Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973, ở miền Nam Việt Nam sau khi hiệp định có hiệu lực các bên tham chiến phải nghiêm chỉnh chấp hành lệnh ngưng bắn tại chỗ. Hai bên miền Nam Việt Nam là chính phủ VNCH và chính phủ lâm thời Việt Cộng-CMLTCHMNVN có trách nhiệm hiệp thương để đồng thuận, nhất trí về các vấn đề nội bộ của miền nam càng sớm càng tốt, để chú trọng vào mục đích sau cùng là một cuộc tổng tuyển cử tự do phù hợp với yêu cầu chính đáng và nguyện vọng tha thiết của Nhân Dân Miền Nam Việt Nam được thực sự thực hiện quyền Tự Quyết, tự do chọn lựa chính thể, được sống tự do trong miền Nam Việt Nam hoà bình, dân chủ, và độc lập.

Vì lập trường Bốn Không của TT Thiệu nên chính phủ VNCH đã không công nhận và nhượng bộ hiệp thương với chính phủ lâm thời VC-CMLTCHMNVN, trong khi chính phủ VNDCCH-CS Bắc Việt đã sử dụng chính phủ lâm thời VC như một công cụ xâm lăng miền nam, cho nên chính phủ lâm thời VC cũng không quyết liệt đòi hỏi thực hiện Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973. Chính phủ CS Bắc Việt và chính phủ lâm thời VC Miền Nam chỉ muốn chiếm trọn miền Nam Việt Nam bằng phương tiện quân sự trong bất cứ lúc nào có cơ hội tốt cho họ.

Khi xem xét một cách khách quan những dữ kiện lịch sử cho thấy rõ ràng là cả ba chính phủ VNCH, lâm thời Việt Cộng-CMLTCHMNVN, và VNDCCH-CS Bắc Việt đều vi phạm hiệp định hoà bình, không tôn trọng lệnh ngưng bắn khi cả ba đều tiếp tục những cuộc hành quân “lấn đất, giành dân, cắm cờ giành quyền làm chủ những vùng đất của NHÂN DÂN VIỆT NAM!”. Căn cứ vào những điều khoản cam kết thi hành của Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 thì chính phủ Mỹ và chính phủ VNDCCH-CS Bắc Việt sau khi hiệp định hoà bình có hiệu lực thì họ sẽ không được phép tiếp tục can thiệp vào những vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam, và phải tôn trọng quyền Tự Quyết của Nhân Dân Miền Nam.

Tuy nhiên trên thực tế sau khi có lệnh ngưng bắn tại chỗ thì cả hai phía quốc gia và cộng sản vẫn cứ tung ra những cuộc hành quân diện địa để giành kiểm soát dân chúng và nới rộng vùng đất chiếm được để treo cờ quốc gia vàng ba sọc đỏ, hay cờ việt cộng nửa xanh nửa đỏ sao vàng, mặc dù các đơn vị hành quân của cộng sản là lính chính qui Bắc Việt nhưng họ đã ngụy trang treo cờ chính phủ lâm thời VC-CMLTCHMNVN.  Một hình ảnh rõ ràng làm thí dụ cụ thể cho sự nguỵ trang lính CS Bắc Việt trở thành lính VC Miền Nam là chiếc xe tăng CS Miền Bắc đã ủi sập cổng Dinh Độc Lập lại treo cờ VC Miền Nam. 
Nếu so sánh lực lượng quân sự thì chính phủ lâm thời VC-CMLTCHMNVN không có gì hơn những đơn vị du kích địa phương mà tỉnh đội là một tổ chức vũ trang lớn nhất ở mỗi tỉnh cũng không đủ quân số và súng đạn cho họ.  Cho dù các Tỉnh Đội VC có những tiểu đoàn chủ lực địa phương nhưng họ cũng không có khả năng chiến đấu đủ mạnh đánh lại các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân ở mỗi Tiểu Khu của chính phủ VNCH vì có sự yểm trợ rất mạnh của các đơn vị phi-pháo diện địa. 

Hơn nữa, chính phủ lâm thời VC-CMLTCHMNVN không có những lực lượng vũ trang cơ động, cơ giới mạnh so với toàn bộ Quân Đội của chính phủ VNCH. Đây là lý do chính giải thích tại sao chính phủ VNDCCH-CS Bắc Việt cứ khăng khăng yêu cầu được duy trì các đơn vị chính qui Bắc Việt tại chỗ sau khi ngưng bắn với một biện luận “họ là người Việt Nam không phải đơn vị ngoại nhập như lính Mỹ và lính Đồng Minh phải rút về nước.

Để được đồng thuận về việc này, chính phủ VNDCCH-CS Bắc Việt phải rút lại yêu cầu loại bỏ TT Thiệu khỏi chính phủ VNCH, họ phải chấp nhận việc duy trì ông Thiệu ở vị trí lãnh đạo chính phủ VNCH cho tới ngày có một cuộc tổng tuyển cử tự do ở miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến”. 

Những đơn vị chính qui CS Bắc Việt để lại ở dưới vĩ tuyến 17 sau khi hiệp định hoà bình và lệnh ngưng bắn tại chỗ có hiệu lực sẽ được nguỵ trang thành các đơn vị vũ trang của chính phủ lâm thời Việt Cộng-CMLTCHMNVN để họ có một quân đội khả dĩ có khả năng thương lượng với chính phủ VNCH của TT Thiệu trong những cuộc hiệp thương giải quyết những vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến.   

Dĩ nhiên Uỷ Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Ngưng Bắn ở các tiểu khu và quân khu tại miền Nam Việt Nam lúc đó đều biết chuyện xấu vi phạm hiệp định đã xảy ra do cả ba chính phủ VNCH, và VNDCCH-CS Bắc Việt đứng phía sau giật dây ra lệnh Việt Cộng-CMLTCHMNVN cùng nhau lấn đất giành dân treo cờ chủ quyền (!) khiến cho công tác của Uỷ Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Ngưng Bắn không có kết quả tốt!  

Trên thực tế rõ ràng ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, có hai quân đội, và có hai vùng kiểm soát khác nhau mà cả hai bên miền Nam Việt Nam trên nguyên tắc của hiệp định hoà bình đều không được phép dùng vũ lực để thôn tính lẫn nhau, cho nên phát sinh yêu cầu phải có một Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc với một giải pháp chính trị là một cuộc tổng tuyển cử tự do ở miền Nam để Nhân Dân Miền Nam Việt Nam thực sự thực hiện quyền Tự Quyết lựa chọn chính thể phù hợp với nguyện vọng được sống trong một nước dân chủ, hoà bình, độc lập, và người công dân có mọi quyền tự do căn bản.

Như vậy ở miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến đã có một Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 và những Điều Khoản quan trọng thiết yếu để giải quyết sự tranh chấp quyền lực lãnh đạo miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến một cách ôn hoà, không phải cưỡng đoạt, cướp chính quyền đang có, và toàn thể Nhân Dân miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến sẽ phải hài lòng với cái kết quả cuối cùng của một cuộc tổng tuyển cử tự do, cho dù nó là một chính phủ cộng sản hay một chính phủ cộng hoà thì cũng do toàn dân miền nam tự quyết định lựa chọn.  Căn cứ vào những dữ kiện lịch sử Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 là hai bên miền Nam Việt Nam gồm có hai chính phủ, VNCH và lâm thời VC-CMLTCHMNVN, phải hiệp thương với nhau để thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc trong thời gian 90 ngày ngay sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực và hoà bình được lập lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trong thời gian 3 tháng hai bên miền Nam Việt Nam đã không thể thành lập được một Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc, như vậy trong thời gian 27 tháng sau đó cho tới ngày 30/4/1975 cả hai chính phủ cộng hoà và cộng sản vẫn không thể nào thoả thuận gì với nhau, bởi vì họ thực sự đã không bắt đầu “cuộc nói chuyện với nhau”. 

Họ thực sự đúng là những kẻ câm-và-điếc, mà cũng không-biết-ra-dấu cho người-đối-diện hiểu!  Nếu họ đã muốn cái-gì, thì họ nhờ người-khác, chẳng hạn như người Pháp (!) “ra-dấu!” thay cho họ, nhưng họ không thành thật, chỉ để lường gạt đối phương!  Vì vậy cuộc hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến đã bế tắt ngay từ đầu, và sự tranh chấp quyền lực lãnh đạo chính quyền và quản lý miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến vẫn không thể hoà giải cho đến mức độ phải tiêu diệt lẫn nhau một-mất-một-còn, và ngày 30/4/1975 đã lên tới đỉnh điểm của cuộc tranh chấp quốc-cộng ở Việt Nam.

Trong tháng Giêng năm 1973 sau khi Hiệp Định Hoà Bình Paris có hiệu lực, giả sử như cả hai bên miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến gồm có hai chính phủ, VNCH và lâm thời VC-CMLTCHMNVN, trong thời gian 90 ngày đồng thuận tiến hành thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc, một hội đồng gồm có ba thành phần nhân sự là Quốc Gia, Cộng Sản, và Trung Lập hay thường gọi là Thành Phần Thứ Ba cùng nhau làm việc theo nguyên tắc đồng thuận nhất trí để cuối cùng tổ chức được một cuộc tổng tuyển cử tự do ở miền Nam Việt Nam phù hợp với yêu cầu chính đáng và nguyện vọng tha thiết của toàn thể Nhân Dân miền Nam Việt Nam là được thực sự thực hiện quyền Tự Quyết chọn lựa chính thể, thì có lẽ không có cảnh người lính cộng hoà và người dân miền Trung tán loạn di tản chiến thuật (!), không có cảnh bắt giữ tù đày cải tạo để trấn áp trả thù (!), không có cảnh đói khát khổ cực của người dân miền Nam ở những vùng kinh tế mới (!), và nhất là ngày nay không có tới hơn 3 triệu người Việt Nam phải sống tha hương vì đã phải bỏ nước ra-đi-tìm-tự-do ở xứ người (!). 

Nếu trong năm 1973 ở miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến thực sự có được một Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc thì chắc chắn không có Ngày Ô Nhục 30/4/1975 Miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm, và Nhân Dân miền Nam Việt Nam bị phân tán chia lìa, người còn ở lại trong nước thì phải sống như bị lưu đày trên chính quê hương của mình, người phải bỏ nước ra đi tha hương xứ người vì tự do!

Nhân dịp kỷ niệm ngày Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 xin đề nghị người Việt ở hải-ngoại và kể cả người Việt ở trong nước nên đọc lại và tìm hiểu nội dung chi tiết đầy đủ của Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 để nhận thấy cho rõ ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng to lớn của nó đối với Nhân Dân Việt Nam nói chung và nhất là Nhân Dân miền Nam Việt Nam. Cũng có thể là trong năm 1973 đã có rất nhiều người Việt Nam chưa từng được đọc văn bản Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 bằng tiếng Anh hoặc bằng tiếng Việt, vì cả hai bên quốc gia và cộng sản, Miền Nam cũng như Miền Bắc đều đã không phổ biến văn bản hiệp định này ra cho toàn thể người dân trong cả nước biết nội dung chi tiết ra sao. Căn cứ vào những dữ kiện lịch sử và chúng ta phải tôn trọng sự thật sự kiện lịch sử khi trao đổi ý kiến, nhận xét khách quan để tránh được những sự tranh cãi không cần thiết và không đem lại ích lợi chung cho quốc gia dân tộc Việt Nam, cũng như cần phải tránh khích động sự đả kích bôi nhọ cá nhân và “chụp mũ hại người” như thuở còn cuộc nội chiến quốc-cộng ở Việt Nam trước đây. 

Vì sự kiện lịch sử của văn bản Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 đã không được những người có trách nhiệm cầm quyền ở Việt Nam cho phép phổ biến rộng rãi và đã không giảỉ thích cặn kẻ rõ ràng cho người dân Việt Nam trong cả nước được hiểu ý nghĩa quan trọng của hiệp định hoà bình này.  Về việc Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc đã không được những người có trách nhiệm cầm quyền ở Việt Nam vào thời điểm năm 1973 thành lập trong vòng 90 ngày ngay sau khi Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 có hiệu lực được so sánh như một hành động gây tội ác với Nhân Dân Việt Nam, đã gây tổn hại nghiêm trọng tình đoàn kết của Nhân Dân Việt Nam thời hậu-chiến vì làm cho tình cảnh chia rẽ giữa người Việt Nam nói chung càng ngày càng phức tạp sâu sắc, và tính cách nghi kỵ, thù ghét giữa người Việt Quốc Gia và người Việt Cộng Sản càng lúc càng sâu đậm không thể hoà giải được xung khắc giữa họ với nhau về việc tranh chấp quyền lực lãnh đạo xã hội Việt Nam của Nhân Dân Việt Nam thời hậu-chiến!  
   
Đến ngày 27/1/2016 là kỷ niệm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 năm nay đã trải qua 43 năm, một sự thật lịch sử của Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc Việt Nam gần như bị lãng quên, hoặc là gần như rất nhiều người Việt Nam đã chưa từng biết tới, cũng như chưa từng được đọc văn bản Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973!

 Hôm nay vì tính cách chính đáng, thiết yếu của yêu cầu hoà giải và hoà hợp dân tộc ở trong nước Việt Nam giữa những người có trách nhiệm cầm quyền độc đảng toàn trị và những người hoạt động dân chủ, đấu tranh cho dân quyền và nhân quyền, chống tham nhũng và chống đối tính cách độc tài, độc quyền, độc đảng; hơn nữa, còn là yêu cầu chính đáng và nguyện vọng tha thiết của Nhân Dân Việt Nam muốn thực sự thực hiện quyền Tự Quyết trong các cuộc bầu cử, ứng cử tự do.  Cũng xin nhắc lại đây là nguyện vọng tha thiết và yêu cầu chính đáng của Nhân Dân Việt Nam từ năm 1973 vẫn còn nguyên cho tới năm nay; cho nên cái mô hình Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc Việt Nam được nhắc lại trong ngày kỷ niệm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 để mong muốn mọi người Việt Nam trong nước cũng như hiện sống ở nước ngoài lưu ý biết tới nguyện vọng thiết tha và yêu cầu chính đáng của Nhân Dân Việt Nam. 

Nếu những người có trách nhiệm cầm quyền nước Việt Nam ở trên thượng-tầng-lãnh-đạo-xã-hội vẫn còn bị bế tắc, không tổ chức được một Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc Việt Nam, thì tất cả người Công Dân Việt Nam ở trong và ngoài nước, ở dưới hạ-tầng-xã-hội-Việt-Nam vẫn có thể tập họp nhau lại thành một tổ chức rộng lớn của cả nước Việt Nam Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc... để những Kẻ-Gây-Nghiệp-Chướng-Tội-Ác và Người-Dân-Oan-Chịu-Khổ-Đau trong nước có thể hoà giải trước công-lý; để Dân-Tộc-Kinh và các Dân-Tộc-Thiểu-Số trong nước có thể bình đẳng phát triển đồng đều, hài-hoà và hoà-hợp với nhau.  Quan trọng nhất là để sự Tranh-Chấp-Quyền-Lực-Lãnh-Đạo-Xã-Hội-Việt-Nam ở trong nước có thể hoà giải, không tập trung độc quyền của một cá nhân hay một đảng phái nào.  Hoà giải không có nghĩa là triệt tiêu Đối Lập, hay đồng hoá đối lập, vì sự hoà giải chân chính giữa các đối lập với nhau. Chỉ với kết quả hoà giải hoà hợp như vậy và khi đó Nhân Dân Việt Nam mới có đủ sức-mạnh-dân-tộc-độc-lập chống lại Kẻ-Thù-Thực-Sự của dân tộc.

Chẳng lẽ nào sau 43 năm đã có Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 lập lại hoà bình trên toàn cõi Việt Nam cái tình trạng “phi-hoà-phi-chiến, không-chiến-tranh-không-hoà-bình” vẫn tiếp tục kéo dài gây tang thương, làm đau khổ nhiều thêm cho Nhân Dân Việt Nam, bởi vì những người có trách nhiệm cầm quyền nước Việt Nam vẫn không có đủ khả-năng-chiếm-và-giữ-được khối-óc và trái-tim của người dân Việt Nam. 

Các chính sách quản lý đất nước của những người cầm quyền Việt Nam mang nhiều tính chất chống lại người dân Việt Nam, như vậy có thể nói là vẫn còn một thứ “chiến-tranh-nhân-dân giữa giới-cầm-quyền Việt Cộng và người-dân-Việt-Nam”. Họ đã cưỡng-đoạt miền Nam Việt Nam thời hậu-chiến để thống nhất đất nước bằng bạo lực, nhưng họ đã thống trị cả nước mà không có thể thống nhất được tinh thần và ý chí của người dân Việt Nam.

Chẳng lẽ nào những người có trách nhiệm cầm quyền nước Việt Nam thời hậu-chiến-kéo-dài đã 43 năm họ vẫn còn bị bế-tắc, không có đủ khả năng để thành lập Hội-Đồng-Quốc-Gia-Hoà-Giải-Hoà-Hợp-Dân-Tộc của nước Việt Nam để thống nhất ý chí, tập trung đoàn kết sức mạnh dân tộc độc lập để chống lại mọi kẻ thù của nhân dân đến từ bất cứ phương nào./.    
                                                                                                          
Sài Gòn, Nhân Ngày Kỷ Niệm 43 Năm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973                                               Nguyễn Thành Trí


Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

CON RÙA MU MỀM HÀ NỘI ĐÃ CHẾT!

CON RÙA MU MỀM HÀ NỘI ĐÃ CHẾT!

Con Rùa Mu Mềm Hoa Lục
Con Rùa Mu Mềm Hoa Lục 
Con Rùa Mu Mềm Hà Nội bị bệnh
Con Rùa Mu Mềm Hà Nội bị bệnh
Đúng ra con rùa mu mềm (softshell turtle) có tên khoa học là Rafetus Swinhoei, nó là loại rùa nước ngọt lớn nhất. Nhận dạng của nó đáng chú ý cái đầu rùa dài có cái miệng giống như mõm heo, hai mắt ở phần trên đầu, khác với các loại rùa thông thường có hai mắt ở hai bên. Kích thước của nó dài trên 1mét, rộng trên 7tấc và cân nặng khoảng 150kg. Mu rùa mềm của nó dài và rộng trên 5tấc. Đầu rùa dài trên 2tấc và rộng trên 1tấc. Con rùa đực nhỏ hơn con rùa cái, nhưng nó có đuôi to, dài hơn. Con rùa mu mềm có thể sống trên 100 năm. Nó là một trong những loài rùa quí hiếm nhất trên thế giới.
Con rùa mu mềm tại Hồ Hoàn Kiếm, hay Hồ Gươm , Hà Nội đã được nhìn thấy và chụp hình của nó trong năm 2008 và thỉnh thoảng trong những năm gần đây. Có một số ý kiến của các nhà sinh học Việt Nam cho rằng con rùa tại hồ Hoàn Kiếm có thể là một loài riêng có tên gọi là Rafetus Leloii. Có lẽ họ đặt tên Leloii lấy từ gốc Vua Lê Lợi để gọi riêng biệt con Rùa Hồ Gươm, hay con Rùa Mu Mềm Hà Nội để phân biệt với con Rùa Mu Mềm Hoa Lục
Hiện tại chỉ còn 3 con rùa mu mềm đang sống gồm có 2 con ở Tây Viên Tự, Tô Châu, Hoa Lục; con thứ 3 ở hồ Đồng Mô, Hà Tây, Việt Nam. Con thứ 4 tại hồ Hoàn Kiếm đã chết vào ngày 19/1/2016.  Con rùa mu mềm gần như sắp tuyệt chủng do việc bắt giết để làm thức ăn ở địa phương, cũng như sử dụng mu và xương rùa trong đông y Trung Hoa.
Chúng ta hãy xem xét những hình chụp được của con Rùa Mu Mềm Hà Nội và con Rùa Mu Mềm Hoa Lục. Một cách khách quan nhận thấy rằng con Rùa Mu Mềm Hoa Lục khỏe mạnh, không bị lỡ loét trên da; trong khi con Rùa Mu Mềm Hà Nội có vẻ bệnh hoạn, trên da đang bị lỡ loét nhiều chỗ.  Trong năm 2011 các viên chức VN có trách nhiệm bảo tồn động vật quí hiếm ở VN đã vớt con Rùa Mu Mềm Hà Nội này lên từ Hồ Hoàn Kiếm để chăm sóc sức khỏe của nó. Nếu họ thực sự biết quí trọng nó vì nó là một loài rùa mu mềm hiếm có trên thế giới và sắp bị tuyệt chủng, thì sau khi đã điều trị cho nó khỏe mạnh, được lành các chỗ lỡ loét, họ đã không bao giờ thả nó xuống sống trở lại trong một cái hồ nước đầy ô nhiễm ở Hà Nội.  Ngược lại, họ phải để cho nó được sống trong một môi sinh thích hợp, trong sạch, có người luôn quan sát, chăm sóc nó.
Tiếc thay! những tay Việt Cộng cầm quyền ở Hà Nội không biết quí trọng các động vật hiếm có như con Rùa Mu Mềm Hà Nội; hơn nữa, nó lại là một biểu tượng Thần Rùa Vàng chống giặc Tàu xâm lược trong Việt Sử oai hùng. Con Rùa Mu Mềm Hà Nội chắc chắn không phải Con Rùa Mu Mềm Hoa Lục và không thể nào đồng hoá nó vì nó là Thần Rùa Vàng đích thực là niềm tự hào dân tộc Việt Nam đã đang và sẽ luôn tranh đấu để giành lại độc lập, tự do cho tổ quốc.
Rất rõ ràng chính những tay Việt Cộng cầm quyền ở Hà Nội đã giết chết con Rùa Mu Mềm Hà Nội, cũng như họ đã không biết quí trọng những cái vô giá của đất nước và con người Việt Nam./
Nguyễn Thành Trí
Sài Gòn, Chủ Nhật 24/1/2016







Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

MỘT ĐÀI LOAN, MỘT HOA LỤC

MỘT ĐÀI LOAN, MỘT HOA LỤC
ONE TAIWAN, ONE CHINA




Lần đầu tiên trong lịch sử đảo quốc Đài Loan, công dân Đài Loan-Taiwanese Citizens đã bầu cử cho Bà Tsai Ing-wen (Thái Anh-Vân) làm Nữ-Tổng Thống đầu tiên của Đài Loan.  
Bà Tsai thuộc Đảng Dân Tiến/Democratic Progressive Party/DPP đã chiếm được 56.1% số phiếu nên đánh bại Ông Eric Chu thuộc Quốc Dân Đảng/Nationalist Party, hay Kuomintang/KMT chỉ có 31% số phiếu; Ông Chu là Chủ Tịch Đảng đương nhiệm của Quốc Dân Đảng đang cầm quyền Đài Loan. Đảng Dân Tiến/DPP là một đảng chính trị đối lập với Quốc Dân Đảng/KMT ở đảo quốc Đài Loan.
Trong bài diễn văn thắng cử, Bà Tsai đã nói rằng “Nhân Dân Đài Loan đã bầu cử cho một chính phủ sẽ bảo vệ chủ quyền của Đài Loan. Nhân Dân muốn có một chính phủ minh bạch, trong sạch và dáng tin cậy.”  Bà Tsai còn nói thêm “Tôi sẽ xây dựng lại sự tin cậy của người dân vào chính phủ và kiến tạo một nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai của Đài Loan.”
Kết quả thắng cử tổng thống của Bà Tsai và của Đảng Dân Tiến/DPP đã chiếm đa số ghế đại biểu trong Quốc Hội Đài Loan hiện nay cũng được xem như là kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý về quan hệ giữa Đài Loan và Hoa Lục. Trong những nhiệm kỳ tổng thống thuộc Quốc Dân Đảng/KMT đã làm cho quan hệ giữa Đài Loan và Hoa Lục gần nhau hơn vì lập trường thoả hiệp, phò-Bắc Kinh của Quốc Dân Đảng, và ý định tạo ra những lợi ích kinh tế được kết hợp thống nhất sâu rộng hơn, nhưng trên thực tế những lợi ích kinh tế muốn được kết hợp thống nhất giữa Hoa Lục và Đài Loan đã không thể nào thực hiện có kết quả tốt. 
Hơn nữa, đối với toàn thể công dân Đài Loan, nhất là đối với người Đài Loan trẻ, càng ngày càng nhận thấy Bắc Kinh đã đang cố ý áp đặt quá nhiều kiểm soát lên đảo quốc Đài Loan của họ, và như thế là họ phản ứng chống lại. Người dân Đài Loan đã đang ủng hộ mạnh Đảng Dân Tiến/DPP vì lập trường của đảng này là độc lập với Bắc Kinh. Đảng Dân Tiến/DPP đã không bao giờ chấp nhận bản “Thoả Hiệp 1992/the1992 Consensus” do Bắc Kinh đề ra Hoa Lục và Đài Loan là một quốc gia.
Bà Tsai cũng đã nhấn mạnh về nền tự trị và hệ thống chính trị dân chủ của đảo quốc Đài Loan. Hơn nữa, lập trường của Đảng Dân Tiến là độc lập. Bà Tsai nói thêm “Kết quả cuộc bầu cử hôm nay cho thấy rõ ý chí của Nhân Dân Đài Loan. Nó là kết quả chung của 23 triệu người dân Đài Loan chứng minh Cộng Hoà Trung Hoa/Republic of China (Đài Loan) là một nước dân chủ. Hệ thống chính trị dân chủ Đài Loan, sự nhận dạng quốc gia, và không gian quốc tế của Đài Loan phải được tôn trọng.  Bất cứ một hình thức đàn áp nào cũng sẽ làm tổn hại sự ổn định mối quan hệ giữa Hoa Lục và Đài Loan.”
 Vào ngày thứ Bảy là ngày bầu cử tổng thống và quốc hội Đài Loan cũng có một chuyện nhỏ đã xảy ra tưởng là chuyện bình thường, nhưng không ngờ nó lại làm dấy lên cảm xúc giận dữ chống-Bắc Kinh như một cơn giông bão của những Công Dân Liên Mạng Đài Loan/ Taiwanese Netizens khi họ cảm thấy cô ca sĩ nhạc KPop người Đài Loan 16 tuổi, tên Chou Tzuyu trong ban nhạc nữ Twice bị chỉ trích và ép buộc phải xin lỗi vì cái tội của cô là cầm lá cờ Đài Loan xuất hiện trong buổi trình diễn ca nhạc của ban nhạc KPop Nam Hàn nữ này ở Bắc Kinh. 

Trong đoạn phim đã phổ biến trên You Tube cho thấy cô Chou phải nói xin lỗi “Chỉ có một Trung Hoa (China-Hoa Lục), Tôi luôn luôn cảm nhận tôi là một người Trung Hoa (Chinese-Not Taiwanese) và tôi hãnh diện về điều này.” 
Nhiều người Đài Loan-Taiwanese đã nhận thấy cô Chou bị ép buộc nói lời xin lỗi như vậy và họ đã nổi giận; thế rồi họ đã dồn phiếu cho Đảng Dân Tiến/DPP chống Bắc Kinh./.
Dr. Tristan Nguyễn - San Francisco, 16/1/2016


Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

CHUẨN BỊ XẤU NHẤT VỚI TÀU CỘNG

CHUẨN BỊ XẤU NHẤT VỚI TÀU CỘNG
Nguyễn Thành Trí

Con Rồng Kinh-Tài Tàu Cộng Rớt Xuống Đất

Ở Hoa Lục dưới sự cai trị độc quyền, độc tài của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng mọi thứ đều giả tạo, giả mạo, và giả dối.  Một thí dụ cụ thể, ở Hoa Lục hiện tại có sự phồn vinh giả tạo với nhiều khu vực mới phát triển đô thị là những thành phố ma không người cư ngụ.  Điều này cũng đã tạo ra một thị trường địa ốc giả dối, không đáp ứng trung thực cho yêu cầu nhà ở của đa số người dân Hoa Lục có thu nhập lợi tức trung bình, lợi tức thấp, hay không có lợi tức ở cả hai nơi thành thị và nông thôn.  

Có một thắc mắc là khi nào Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng sẵn sàng làm pháp thuật hô biến “Giấc Mơ của Người Hoa Lục/Chinese Dream” trở thành hiện thực bằng cách cung cấp nhà ở cho-không-biếu-không, hoặc bán rẻ trả góp dài hạn những khu nhà ở chung cư này cho đa số người dân Hoa Lục nghèo khổ, túng thiếu, vào lúc họ sẽ được di cư từ các vùng nông thôn tới các thành phố ma này trong tương lai của một nước Trung Hoa Mới/New China thực sự dân chủ, tự do. 
Cũng có lẽ Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng vẫn có thể nhất cử lưỡng tiện là cứ làm theo đúng như mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có đặc tính Hoa Lục Tàu Cộng” để biến đổi những khu thành phố ma này thành những khu “Công Xã Trung Hoa Mới/The Commune of New China” cung cấp nhà ở và công ăn việc làm cho đa số người dân Hoa Lục hiện đang nghèo khổ.  

Đó đúng là một giải pháp có hiệu quả cao và sẽ được người dân Hoa Lục ủng hộ nhiều, vì nó hoàn toàn khác với “Công Xã Tàu Cộng/The Commune of Communist China” trong thời kỳ Mao; hơn nữa “Công Xã Trung Hoa Mới/The Commune of New China” có thể giải quyết tốt đẹp vấn đề kinh tế xã hội hiện tại rất trầm trọng ở Hoa Lục.
Trở lại thực tế, nói riêng thị trường địa ốc Hoa Lục đã giả dối cũng như thị trường chứng khoán Hoa Lục đã giả tạo trong một bối cảnh chung của cả một nền kinh-tài Hoa Lục có định hướng giả mạo kinh tế thị trường tự do với đặc tính Tàu Cộng. Một cách giản dị dễ hiểu là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang khống chế, toàn trị chỉ huy, điều khiển đất nước Hoa Lục trở thành một “thị trường giả tạo, giả mạo, giả dối” và giả dạng kinh tế thị trường nhưng có định hướng xã hội chủ nghĩa với đặc tính Tàu Cộng một cách rất gian trá.
Trên thực tế ở Hoa Lục người ta cũng cần nhấn mạnh sự hiện hữu của một loại thị trường có đầy tính chất giả tạo, giả dối; đó là thị trường chứng khoán Hoa Lục mang nặng tính chất quốc doanh, nhà nước quản lý chặt chẽ.  Thị trường chứng khoán Hoa Lục đã có thể hoạt động được một cách bình thường, hay trung bình là do chính Nhà Nước Tàu Cộng đã áp dụng biện pháp cung cấp tiền Yuan để các cơ quan nhà nước có chức năng hoạt động kinh-tài như ngân hàng quốc doanh, tập đoàn thương nghiệp quốc doanh, tổ chức quản lý ngân quỷ quốc doanh có thể “tự mình mua đi bán lại các loại cổ phiếu” để nâng giá, đẩy giá, và giữ giá các loại cổ phiếu chỉ với một mục đích chủ yếu là nâng đỡ, thúc đẩy, và duy trì hoạt động thị trường chứng khoán Hoa Lục một cách tài tình kỳ lạ. 

Quả thật, biện pháp “tự mình mua đi bán lại” của Nhà Nước Tàu Cộng đã có thể xây dựng và củng cố thị trường chứng khoán Hoa Lục một cách khá thần kỳ và càng ngày có vẻ càng được phát triển mạnh hơn trong một thời gian ngắn hạn; tuy nhiên, Nhà Nước Tàu Cộng sẽ không thể nào cứ tiếp tục cái phương cách “tự-cung-tự-cấp-tự-mua-tự-bán” trong cái thị trường chứng khoán quốc doanh bệnh hoạn ở Hoa Lục trong một thời gian tương lai lâu dài.
Vì làm như vừa sơ lược kể trên, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang can thiệp sâu rộng vào thị trường chứng khoán Hoa Lục, và thực sự làm cho nó trở nên một thị trường giả tạo, giả dối. Các nhà đầu tư tài chính quốc tế đã mất hết tin tưởng vào cái khả năng của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng để điều hành thị trường chứng khoán cũng như cái khả năng chỉ huy cả nền kinh-tài Hoa Lục.  Sự mất tin tưởng dẫn tới cái tâm lý lo sợ của các nhà đầu tư tài chính quốc tế vào các thị trường ở Hoa Lục là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang tạo ra một vài loại khủng hoảng cơ cấu có tính cách hệ thống mà nó có thể liên luỵ làm tổn hại tới sức tăng trưởng của các thị trường khác trên toàn thế giới.
Trong hơn hai thập niên vừa qua nền kinh-tài Hoa Lục đã bành trướng nhanh và mạnh với những “dòng Tiền Nóng” và những “dòng Tiền Lạnh” đầu tư bằng tiền đôla Mỹ liên tục chảy vào Hoa Lục.  Với Tiền Nóng và Tiền Lạnh khá dồi dào dư dả thì Nhà Nước Tàu Cộng và Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục đã thực sự dùng những khối lượng tiền đôla Mỹ này để mua Công Khố Phiếu Mỹ/US Treasuries để đã có thể tuyên truyền khoác lác rằng Hoa Lục Tàu Cộng là một ông chủ nợ lớn của Hoa Kỳ. Trên thực tế mối “quan-hệ-tiền-bạc” giữa Hoa Kỳ và Hoa Lục đã khiến cho cả hai bên cùng có lợi, trong khi Hoa Lục có thể bành trướng nền kinh-tài thì đồng thời Hoa Kỳ cũng có thể hưởng lợi từ một chủ nợ sẵn sàng và có khả năng cho vay bằng cách mua Công Khố Phiếu Mỹ. 

Hãy nói dễ hiểu hơn là trong quá khứ nền kinh-tài Hoa Lục bành trướng nhanh và mạnh đã trực tiếp góp phần tài trợ cho Hoa Kỳ trong hơn mười năm có chiến tranh Iraq và Afghanistan phải thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, mối “quan-hệ-tiền-bạc” giữa Hoa Lục và Hoa Kỳ trong quá khứ đó đã hoàn toàn thay đổi, cái quan hệ tiền bạc đó trong hiện tại đang diễn biến ngược lại. 
Cũng trong hơn hai thập niên vừa qua Hoa Lục quả thật là một nước tiêu thụ mạnh mọi thứ nguyên vật liệu được khai thác và sản xuất từ các nước khác, và điều này cũng đã thúc đẩy sức tăng trưởng của thế giới. Một trong những vấn đề đối với Hoa Lục là sự khai thác và tiêu thụ nguyên vật liệu trong nước.  Hoa Lục cũng còn là một nước tiêu thụ quá nhiều sản phẩm nguyên vật liệu của các thị trường đang nổi lên; nhất là Hoa Lục đã tiêu thụ mạnh các loại tài nguyên thiên nhiên tới mức làm tổn hại môi sinh trầm trọng ở những nơi đó.  
Tuy nhiên, một cách trớ trêu là nếu không có nhu cầu của Hoa Lục tiêu thụ mạnh nguyên vật liệu thì sẽ bị ứ đọng lại quá nhiều thứ sản phẩm đã tạo ra có liên quan tới công việc xây cất thương mại, hạ tầng cơ sở giao thông, và các vật liệu dụng cụ khai thác quặng mỏ. Ngược lại, bây giờ Hoa Lục đang trở thành một nước bán tháo bán bỏ vào thị trường thế giới mọi thứ từ hàng hoá công nghệ phẩm gia dụng rẻ tiền cho tới sản phẩm vật liệu chì nhôm sắt thép.  

Đây là một triệu chứng khủng hoảng cơ cấu có tính cách hệ thống do Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng gây ra vì đã can thiệp sâu rộng vào tất cả hoạt động thị trường của nền kinh-tài Hoa Lục. Hãy nói một cách dễ hiểu là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã cực lực thúc đẩy sự phát triển Hoa Lục rất nhanh, nhưng thực sự rất không cân đối trong các lãnh vực xã hội, sinh hoạt chính trị và môi sinh của người dân Hoa Lục.
Một sự kiện rất quan trọng cũng đã xảy ra trong tuần lễ vừa qua là hai ngày, thứ Hai 4/1/2016 và thứ Năm 7/1/2016, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã có những bước đi sai chính sách rất đáng ngạc nhiên, và nó đã làm tổn thương uy tín của nền kinh-tài Hoa Lục đối với sự ổn định của các thị trường tài chính thế giới. Thông thường giới lãnh đạo của một quốc gia cần phải có tầm nhìn xa cho một viễn ảnh kinh-tài rõ ràng và dài hạn; hơn nữa họ còn phải áp dụng những chính sách kinh-tài nhất quán để nhất định và quyết tâm sẽ đạt được mục đích kinh-tài đã đề ra.  
Người ta đã nhận thấy trường hợp của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã không đi đúng phương hướng tiêu chuẩn như vậy, vì họ đã làm một sự hoàn toàn trái ngược với chính sách một cách rất đột ngột, và rất không bình thường.  Họ đã bất ngờ làm phát khởi những “nút tự động cắt dòng điện/circuit breakers” vừa được họ thiết lập trong thời gian gần đây để có thể ngăn cản, tránh được những cách đối phó, ứng xử điên rồ, bất bình thường như bất ngờ bán tháo ra một khối lượng rất lớn cổ phần trong thị trường chứng khoán Hoa Lục.
Việc thiết kế, lắp đặt và áp dụng những “nút tự động cắt dòng điện/ circuit breakers” trong thị trường chứng khoán gồm có những mức ấn định phát khởi như là “giảm 7% phần trăm ở Mức 1, hoặc giảm 13% phần trăm ở Mức 2 thì phải tạm ngưng 15 phút rồi tiếp tục như thường. Trường hợp bị giảm 20% phần trăm ở Mức 3 thì phải ngưng trọn ngày còn lại lúc xảy ra. Thị trường chứng khoán New York Hoa Kỳ cũng đã thiết kế, lắp đặt những “nút tự động cắt dòng điện/circuit breakers” và chỉ áp dụng một lần đóng cửa thị trường vào ngày 27/10/1997 khi chỉ số Dow Jones giảm xuống 550 điểm, nhưng sau lần đó cho tới bây giờ chưa có lần thứ hai. 
Đối với trường hợp của thị trường chứng khoán Hoa Lục, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã áp dụng một cách quá chặt chẽ cho đến nỗi phải hoảng hốt, sợ hãi và trở nên phản-tác dụng, gây ảnh hưởng tâm lý không tốt cho các nhà đầu tư tài chính ở Hoa Lục.  Sau khi mở cửa giao dịch thị trường chứng khoán Hoa Lục bị ngưng một cách đột ngột trong ngày thứ Năm 7/1/2016; đây là ngày thứ nhì trong một tuần thị trường chứng khoán Hoa Lục bị đóng cửa bất ngờ vì Chỉ số Chứng khoán Hoa Lục CSI 300 đã rơi xuống quá nhanh làm mất 7% phần trăm trong vòng chưa đầy một phút đồng hồ, và đã làm cho những “nút tự động cắt dòng điện/circuit breakers” được phát khởi đóng cửa cả thị trường chứng khoán Hoa Lục trọn ngày thay vì chỉ tạm ngưng 15 phút trong ngày thứ Hai 4/1/2016 và đã lặp lại như vậy trọn ngày thứ Năm 7/1/2016.
Trong khi Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã áp dụng những “nút tự động cắt dòng điện/circuit breakers” để nhanh chóng ngăn chặn sự tổn thất lan rộng thêm trong thị trường chứng khoán Hoa Lục, nhưng cái “biện pháp cắt dòng điện” hay còn gọi là “tắt đèn làm lại” kiểu này của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng cũng đã thúc đẩy các nhà đầu tư tài chính gấp rút phải bán bỏ thêm cổ phiếu của họ càng nhiều càng nhanh càng tốt! 

Bởi vì Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã bất ngờ “tắt đèn làm lại” một cách nhanh chóng ở mức báo động 7% Mức 1 chỉ tạm ngưng 15 phút, và cái phản ứng rất là không bình thường, mà các viên chức có trách nhiệm về tài chính của đảng và nhà nước cũng không thể giải thích rõ ràng tại sao có cái phản ứng quá nhanh để đối phó lại một sự kiện có vẻ không đáng kể, không trầm trọng như 7% phần trăm Mức 1 ấn định; cho nên các nhà đầu tư tài chính cũng đã có thể tránh được những “lúc nóng/hot periods” mà sử dụng những “lúc nguội/ cool-down periods” để tiếp tục bán lấy vốn cổ phiếu của mình, nếu không phải là bán bỏ đi!
Người ta cũng biết rất rõ là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang thao túng cả hai loại tiền Yuan Hoa Lục, tuy là một thứ Nhân Dân Tệ Hoa Lục nhưng có hai tính chất được sử dụng khác nhau giữa tiền Yuan được xài trong nước Hoa Lục (Yuan/ onshore rate) và tiền Yuan được xài ở hải ngoại (Yuan/offshore rate). Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang chỉ huy, kèm giữ các lực lượng kinh-tài thị trường Hoa Lục rất chặt chẽ, nhưng trong tuần lễ 4-8/1/2016 vừa qua, người ta chứng kiến những hoạt cảnh hốt hoảng của các viên chức Tàu Cộng phụ trách kinh-tài Hoa Lục phải lo sợ trong các thị trường tiền tệ ở hải ngoại, những nơi có giao dịch với tiền Yuan hải ngoại (Yuan/offshore rate).  Vừa mới đây có một sự kiện đáng chú ý là vào ngày thứ Ba 12/1/2016 Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục đã bất ngờ tăng cao mức lãi suất lên 66% phần trăm cho vay tiền Yuan hải ngoại ở thị trường Hong Kong.  
Thật là oái oăm, trái với bình thường tới mức kỳ quái, vì đây là một hình thức tự thu mua tiền Yuan quá đột ngột, quá bí ẩn và quá nhiều với một lãi suất quá cao do chính Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục tự thực hiện, và nó đã làm cho thị trường Hong Kong gần như cạn khô tiền Yuan hải ngoại; tuy nhiên, một cách quá khó hiểu là không lâu sau đó lãi suất vay tiền Yuan lại giảm xuống là 8% phần trăm, một lãi suất vẫn còn quá cao, không thấp như thời gian trước kia. 
Với cách thức định mức lãi suất vay tiền Yuan tăng cao giảm xuống nhanh bất ngờ như vậy thì rõ ràng Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục đã có chủ ý khiến cho hoạt động tiền Yuan hải ngoại không bình thường.  Tính cách Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng thao túng tiền Yuan Hoa Lục quá độ lộ liễu, và như vậy tiền Yuan Hoa Lục không được hoàn toàn quốc tế hoá như các loại tiền tệ dự trữ của thế giới là tiền Đô Mỹ, tiền Yen Nhật, tiền Euro Liên Âu, và tiền Pound Anh có Đặc Quyền Rút Vốn/Special Drawing Rights/SDR.
Trong một nổ lực làm thu hẹp lại khoảng cách xa của hai loại tiền Yuan Hoa Lục, ở nội địa và ở hải ngoại, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã tạo ra được một “tỷ lệ nghịch” rất oái oăm, rất khó giải quyết trừ khi nào tiền Yuan Hoa Lục thực sự được giải phóng, và rất chính xác chỉ rõ Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng vẫn còn thao túng tiền Yuan Hoa Lục trong các thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ Hoa Lục vẫn còn chưa được thực sự cải tạo, cải cách đúng đắn, trung thực.  Bởi vì tiền Yuan Hoa Lục nội địa (Yuan/onshore rate) càng bị giảm thiểu hối suất để thu hẹp khoảng cách xa giữa hai thị trường hối đoái của tiền Yuan, thì một khối lượng lớn tiền Yuan Hoa Lục hải ngoại (Yuan/ offshore) sẽ bị tổn thất càng lớn hơn.
Có một sự kiện cần nhắc lại là trước khi được Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế/IMF đồng ý kết nạp tiền Yuan Hoa Lục vào tổ chức tài chính thế giới IMF có Đặc Quyền Rút Vốn/SDR, thì Nhà Nước Tàu Cộng đã tuyên bố cho phép các lực lượng thị trường có được tự do hơn đối với hối suất của tiền Yuan, nhưng Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục vẫn cứ kèm giữ tỉ lệ hối đoái và đã thực sự cung cấp nhiều trăm tỉ đôla Mỹ vào thị trường để nâng đỡ tiền Yuan.  Như vậy Nhà Nước Tàu Cộng đã can thiệp sâu rộng vào thị trường tiền tệ Hoa Lục, nhưng vẫn không thể ngăn chặn được tiền Yuan đang trên đà mất giá quá nhanh.  Kể từ tháng 8/2015 cho tới nay tiền Yuan Hoa Lục đã mất giá 6% phần trăm so với tiền đôla Mỹ, một khối lượng tổn thất cho nền kinh-tài Hoa Lục được tính tương đương vài ngàn tỉ đôla Mỹ.

Để đối phó với sự kiện “tắt đèn làm lại” trong hai ngày thứ Hai 4/1/2016 và thứ Năm 7/1/2016 Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục đã tuyên bố quyết định cung cấp 20 tỉ đôla Mỹ trong ngày thứ Ba 5/1/2016 và lại tiếp tục cung cấp thêm 10.6 tỉ đôla Mỹ trong ngày thứ Sáu 8/1/2016 cho hệ thống tài chính Hoa Lục. Rất dễ nhận thấy Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã phản ứng nhanh chóng, mạnh mẽ với sự kiện “tắt đèn làm lại” cũng cho biết rằng những người cầm quyền ở Hoa Lục hiện nay đã không thể nào đánh trống lảng, bỏ qua, che giấu vấn đề kinh-tài của Hoa Lục đang rất nghiêm trọng. Vấn đề toàn bộ nền kinh-tài Hoa Lục mới quan trọng hơn, đáng được quan tâm nhiều hơn cái thị trường chứng khoán quốc doanh bệnh hoạn của Hoa Lục.

Trong lúc Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã làm mất giá tiền Yuan Hoa Lục, thì những nguồn vốn tiền đôla Mỹ cũng đã tăng tốc bay ra khỏi Hoa Lục.  Chỉ trong một tháng 12/2015 Hoa Lục đã phải bán ra hơn 100 tỉ đôla Mỹ để cố gắng giữ cho tiền Yuan không tiếp tục bị mất giá nhiều hơn và nhanh hơn nữa. Cũng có những số liệu chưa có thể xác minh đúng hay sai là tổng số nguồn vốn tiền đôla Mỹ đã chảy ra khỏi Hoa Lục trong năm 2015 là 1.5 ngàn tỉ đôla Mỹ, tương đương 15% phần trăm tổng tài sản của Hoa Lục. Ngoại tệ dự trữ của Hoa Lục cũng đã giảm xuống 3.6 ngàn tỉ đôla Mỹ vì Ngân Hàng Trung Ương Hoa Lục đã bán ra 107 tỉ đôla Công Khố Phiếu Mỹ.  
Ngoài ra, Nhà Nước Tàu Cộng cũng đã áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn tư bản đôla Mỹ để kèm giữ nó không chảy ra khỏi Hoa Lục. Cũng như cả nền kinh-tài Hoa Lục vẫn còn đang bị kèm kẹp cho nên cái sức mạnh phục hồi của nó đang không thể nào đủ sức bật lên đứng dậy trở lại. Hiện tại sự kèm kẹp của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng áp dụng lên cả nền kinh-tài Hoa Lục thực sự đã đang khiến cho các thị trường của nền kinh-tài này không có đủ sức phục hồi và mất hết tính chất hấp dẫn của các thị trường Hoa Lục đối với các nhà đầu tư tài chính như trước kia.
Tại sao Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã không còn một chọn lựa nào khác hơn là phải phát khởi những “nút tự động cắt dòng điện/circuit breakers” hay “tắt đèn làm lại” để đóng cửa thị trường chứng khoán Hoa Lục. Người ta thắc mắc là việc đột ngột đóng cửa thị trường chứng khoán có thể ngăn chặn được tiền Yuan sẽ mất giá của nó nữa không? Hay là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng sẽ có thể làm cho các nhà đầu tư tài chính trở lại tin tưởng để tiếp tục mua bán chứng khoán Hoa Lục nữa không?  Người ta chỉ có một câu trả lời ngắn nhanh gọn là “Không bao giờ”.  
Như vậy việc Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đột ngột làm mất giá tiền Yuan liên tiếp trong ba ngày trong tháng 8/2015 năm ngoái, và nay lại đột ngột đóng cửa thị trường chứng khoán Hoa Lục hai ngày trong một tuần đầu năm 2016 rõ ràng là một sai lầm rất trầm trọng. Trên thực tế trong năm 2015 khối lượng tiền ngoại tệ dự trữ bằng đôla Mỹ của Hoa Lục đã giảm xuống đáng kể nghiêm trọng, và đó cũng là một hiện tượng rõ rệt cho biết những dòng “Tiền Nóng, Tiền Lạnh” của nguồn vốn tư bản đầu tư đã đang không ngừng chảy ra khỏi Hoa Lục.
Cũng trong tháng 12/2015 các số liệu thống kê trung thực đáng tin cậy đã cho thấy khu vực dịch vụ Hoa Lục đã ở vào mức độ thấp nhất trong vòng 18 tháng qua; cũng như các hoạt động ở khu vực xí nghiệp công nghệ sản xuất chủ yếu của Hoa Lục cũng đã đình trệ rõ rệt. Như vậy, các biện pháp kích cầu, thúc đẩy sản xuất, nâng đỡ nền kinh-tài bị suy sụp của Nhà Nước Tàu Cộng đã thực hiện trong hơn một năm rưởi vừa qua cho tới nay thực sự chỉ đạt kết quả rất ít!  
Trong tuần thứ nhất bắt đầu năm 2016 lại một lần nữa có những dấu hiệu chỉ rõ những núi nợ khổng lồ của Hoa Lục mà Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng không thể tiếp tục dối trá che đậy được nữa. Đó là những núi nợ thực sự khổng lồ của các SOE/Tập Đoàn Kinh Tế Quốc Doanh Hoa Lục. Những núi nợ khổng lồ này đã đang đè nặng lên Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng với tổng số nợ hiện nay được tính tròn lên 28 ngàn tỉ đôla Mỹ, một con số nợ rất lớn, lớn hơn con số nợ của hai nước Đức và Mỹ cộng chung lại.
Trong lúc Hoa Lục đã quá độ phải chuyển tiếp từ một nền kinh-tài căn bản là đầu tư tài chính vào các thị trường bất động sản và các công nghệ sản xuất để trở nên một nền kinh-tài được thúc đẩy điều hành bởi sự tiêu thụ của khách hàng nội địa Hoa Lục. Ở Hoa Lục hiện nay người ta đang chứng kiến những sự kiện thực tế là các thị trường bất động sản và những khu vực công nghệ sản xuất đã đang càng lúc càng không tạo ra được lợi nhuận.  Hơn nữa cả hai khu vực thị trường bất động sản và khu vực công nghệ sản xuất đang phải chịu đựng áp lực nặng nề của những món nợ chồng chất lâu ngày quá hạn không trả nổi, thậm chí họ còn không trả được đúng hạn tiền lãi của các món nợ này.
Cũng có một hiện tượng rất lạ và đáng ngạc nhiên là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng tập trung sự can thiệp trực tiếp vào thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ bằng cách bơm hàng trăm ngàn tỉ đôla Mỹ vào thị trường chứng khoán, ban hành luật ngăn cấm các nhà đầu tư bán ra số lượng lớn cổ phiếu của họ, nhưng nhà nước thì lại mua vào tất cả khối lượng cổ phiếu đã bị bán ra trước đó. 

Trên thực tế của Hoa Lục có việc rất thiết yếu cần làm ngay trong ngắn hạn ở Hoa Lục là phải kích thích nhu cầu tiêu thụ trong nội địa, một việc rất thiết yếu cần làm ngay mà Nhà Nước Tàu Cộng vẫn chưa làm một cách nghiêm túc. 

Một cách rất rõ ràng khi Chỉ số PMI (Purchasing Managers Index) của khu vực công nghệ sản xuất Hoa Lục xuống thấp hơn 50 điểm là nó chỉ rõ các hoạt động công nghệ sản xuất Hoa Lục đã suy giảm trầm trọng. Điều này cũng cho thấy là Hoa Lục phải đối mặt giải quyết gấp rút vấn đề “thặng dư hàng hoá”, vì ở các thị trường hải ngoại đã đang không còn khách hàng tiêu thụ mua hàng hoá do Hoa Lục sản xuất.
Khu vực công nghệ sản xuất Hoa Lục đã vay tiền vốn hoạt động và trả tiền lãi thấp, cho nên họ đã thu nhiều lợi nhuận và sau đó đã mở rộng sản xuất nhiều thêm sản phẩm.  Rất tiếc đó là thời kỳ vàng son của Hoa Lục đã qua. Hiện nay trên thực tế họ đã đang phải đối phó với vấn đề “thặng dư hàng hoá”, tình trạng cung nhiều hơn cầu khi không còn người tiêu thụ hàng hoá Hoa Lục ở hải ngoại như trước kia. 

Trong khi nhu cầu tiêu thụ hàng hoá của Hoa Lục ở hải ngoại đã đang giảm xuống gần như số không, thì nhu cầu tiêu thụ ở nội địa Hoa Lục vẫn chưa có đủ sức mạnh để thay thế cho nhu cầu ở hải ngoại.  Đây đúng là một khởi điểm phát sinh cơn khủng hoảng trầm trọng của nền kinh-tài Hoa Lục, bởi vì nhu cầu tiêu thụ ở nội địa quá thấp sẽ gây hậu quả là khu vực công nghệ sản xuất sẽ không thu được nhiều lợi nhuận, mà nó cũng trực tiếp tạo ra những khó khăn cho việc trả lại nợ vay sản xuất.
Những ảnh hưởng dây chuyền sẽ xảy ra là người dân Hoa Lục mất niềm tin vào Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng khi khu vực công nghệ sản xuất bị bắt buộc cho công nhân nghỉ việc hàng loạt khiến cho tình trạng thất nghiệp càng ngày càng nghiêm trọng, và càng ngày nhu cầu tiêu thụ cũng như sức mạnh mua bán ở nội địa Hoa Lục càng xuống thấp hơn.  Trong tình hình như vậy thì lợi tức cá nhân và lợi tức của hộ gia đình Hoa Lục chắc chắn cũng sẽ bị giảm sút, nhưng lợi tức cá nhân và lợi tức của hộ gia đình Hoa Lục chính là sức mạnh mua bán nội địa, là những động cơ chủ yếu đẩy mạnh nền kinh-tài Hoa Lục định hướng tiêu thụ và dịch vụ phục vụ khách hàng nội địa.
Quả thật, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng không thể tiếp tục tránh né những bước kế tiếp trong tiến trình cải cách để thực sự giải phóng hoàn toàn nền kinh-tài Hoa Lục và thực hiện hoàn chỉnh việc quốc tế hoá tiền Yuan Hoa Lục. Càng cố ý chần chờ, kéo dài, tránh né, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng càng tự mình bộc lộ cái không có khả năng phải có của một chính phủ để thực hiện hoàn tất các chính sách kinh-tài đã đề ra. Hơn nữa, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng cũng không thể tiếp tục tránh né các tránh nhiệm ở trong nước đối với toàn thể công dân Hoa Lục, cũng như cái trách nhiệm của một nước lớn có ý đồ bành trướng ở hải ngoại một cách hung bạo, xem thường luật pháp quốc tế.
Vì vậy, người ta phải kết luận rằng thị trường chứng khoán Hoa Lục, thị trường tiền tệ Hoa Lục, cũng như các loại thị trường ở Hoa Lục nói chung là những loại thị trường giả tạo, giả mạo, và giả dối vì đã đang bị Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng khống chế, thao túng, kèm kẹp, vo tròn bóp méo, sửa đổi bằng đủ mọi cách! Thông thường giới lãnh đạo của một quốc gia cần phải có tầm nhìn xa cho một viễn ảnh kinh-tài rõ ràng và dài hạn; hơn nữa họ còn phải áp dụng những chính sách kinh-tài nhất quán để nhất định và quyết tâm sẽ đạt được mục đích kinh-tài đã đề ra.  

Nền kinh-tài Hoa Lục gồm có tất cả các thị trường của Hoa Lục cần phải được thực sự giải phóng, phải được thực sự tự do.  Hơn ai hết, Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng hiểu rõ ý nghĩa thật, và chính xác của tiếng động từ “giải phóng” và cần hành động thực hiện trong khi Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng biết rõ là không thể tiếp tục kèm kẹp các lực lượng thị trường của Hoa Lục lâu hơn nữa.
Tóm lại nền kinh-tài Hoa Lục cần phải thực sự được giải phóng để đối phó với những vấn đề nghiêm trọng như sau: (1) tiền Yuan bị mất giá quá nhanh và chưa được quốc tế hoá hoàn toàn, (2) thị trường địa ốc bị ứ đọng, (3) thị trường chứng khoán không ổn định, (4) thị trường tiêu thụ nội địa còn quá yếu, (5) tình trạng thặng dư quá nhiều hàng hoá gây giảm phát và (6) khiến khu vực công nghệ sản xuất phải đóng cửa nhà máy cho công nhân viên chức nghỉ việc, (7) số người thất nghiệp quá đông và (8) lợi tức thu nhập của cá nhân xuống thấp khiến cho sức mạnh mua bán nội địa yếu kém.  Đây là một cuộc khủng hoảng cơ cấu hệ thống kinh tế-tài chính của Hoa Lục có một tầm cỡ rất lớn. Lẽ tất nhiên là cần phải giải toả các áp lực nợ, (9) vì nợ công quá nhiều và do các Tập Đoàn Kinh Tế Quốc Doanh/State Owned Enterprises/SOE đã gây nợ chồng chất nhiều năm, (10) các Tập Đoàn Kinh Tế Quốc Doanh/SOE này cần phải thực sự được cải tổ và tư nhân hoá thực sự không nguỵ trang có hình thức. 

Cái cốt lõi của vấn đề giải phóng, cải tạo nền kinh-tài Hoa Lục là phải có những “dòng Tiền Lạnh” rất lớn và chảy mạnh trở lại đầu tư lâu dài vào Hoa Lục để cưú sống nền kinh-tài Hoa Lục. Trong ngày thứ Hai 11/1/2016 có thông tin rằng các nhóm tài phiệt đã từng giúp đỡ Liên Bang Nga thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh-tài vào năm 1998, hiện nay liên hệ với các tổ chức kinh-tài Hoa Lục về chuyện bắt đầu mở những “dòng Tiền Lạnh” chảy vào Hoa Lục. Quả thật, đây cũng là một kiểu cách “tắt đèn làm lại” của Tài Phiệt Chính Thống với một điều kiện ắt có và đủ là một nước Trung Hoa Mới/New China China hoàn toàn mới./.

Nguyễn Thành Trí                                                 Sài Gòn, 15/1/2016