Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015

CHÍNH SÁCH CỐ Ý HÀM HỒ CỦA TÀU CỘNG

CHÍNH SÁCH CỐ Ý HÀM HỒ CỦA TÀU CỘNG                                         Nguyễn Thành Trí



Quần Đảo Hoàng Sa/Paracel Islands và Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands trong Biển Đông Nam Á/Southeast Asia Sea
Theo định nghĩa, Chính Sách Cố-Ý Hàm-Hồ (Policy of Deliberate Ambiguity) còn được nói tới như một Chính Sách Chiến-Lược Bất-Trắc (Policy of Strategic Uncertainty) là những hành động tiêu biểu thay đổi theo thời gian của một quốc gia đang cố ý tạo ra những sự kiện không rõ ràng trong chính sách ngoại giao.  Những sự kiện không rõ ràng này có thể giúp ích cho một quốc gia nếu nó có những mục tiêu chính sách nội địa và hải ngoại khác nhau, hoặc quốc gia đó với ý định lợi dụng bản tính thông thường của những đối phương muốn tránh né nguy cơ xung đột để chính mình có cơ hội làm mạnh thêm một “chiến lược vết-dầu-loang” khiến cho đối phương nản lòng thoái chí, và đưa tới kết quả sau cùng là chính mình giành được thắng lợi như đã sắp đặt trước trong Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ.
Tuy nhiên, một Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ hay Chính Sách Chiến Lược Bất Trắc như vậy rất nguy hiểm bởi vì nó có thể gây sự hiểu lầm khi nó được diễn dịch sai những ý định, và sẽ không tránh khỏi những hành động trái ngược với mong muốn của quốc gia đó. Hoa Lục Tàu Cộng là một quốc gia đã đang thực hiện một Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ hay Chính Sách Chiến Lược Bất Trắc ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á khi lợi dụng bản tính thông thường của những đối phương trong khu vực không muốn đối đầu xung đột vũ trang với Tàu Cộng. Trong khi thực hiện Chính Sách Chiến Lược Bất Trắc, hệ thống thông tin tuyên truyền và kể cả các viên chức cầm quyền trong Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đều có những lời lẽ hàm hồ, trâng tráo, và rất gian trá.
Thời gian sau khi Hải Quân Mỹ và Không Quân Mỹ đã thi hành “Quyền Tự Do Lưu Thông Hàng Không Hàng Hải” trong hai khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông Nam Á ở những nơi Tàu Cộng tự thiết lập vùng phòng không ADIZ rộng lớn và lãnh hải chủ quyền 12 hải lý xung quanh các hòn đảo nhân tạo của Tàu Cộng chiếm đóng trong Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands, thì lời lẽ của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng có thay đổi khác hơn trước, nhưng càng hàm hồ, trâng tráo và gian trá hơn trước nữa.
Khi xem xét cẩn thận lời lẽ nguỵ biện của Bộ Ngoại Giao Tàu Cộng cũng như của Bộ Quốc Phòng Tàu Cộng, người ta nhận thấy một sự quỉ quyệt, gian trá tinh vi hơn trong cách dùng từ ngữ mà chữ nghĩa cố ý hàm hồ đã được cả hai bộ phận này của Nhà Nước Tàu Cộng phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ hay còn được gọi là cái Chính Sách Chiến Lược Bất Trắc của Tàu Cộng đã thực hiện trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong hơn hai chục năm qua.    
Bởi vì Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang thực hiện một chính sách cố ý hàm hồ, cho nên cả hai bộ phận quan trọng của chính phủ là ngoại giao và quốc phòng cũng có lời lẽ hàm hồ không rõ ràng, không xác định chắc chắn là Hải Quân Mỹ và Không Quân Mỹ đã xâm phạm chủ quyền không phận và hải phận của Tàu Cộng hay không!
Trong các bản tuyên bố cáo buộc của Nhà Nước Tàu Cộng luôn luôn có những chữ nghĩa đầy tính chất mơ hồ lập lờ hai mặt nhằm đáp ứng mục đích của Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ. Thí dụ cụ thể như Bộ Ngoại Giao Tàu Cộng đã cảnh báo nước Mỹ “vi phạm chủ quyền và đe doạ nền an ninh của Hoa Lục Tàu Cộng”. Tàu Cộng đã thay đổi cách dùng chữ để phản ứng chống lại nước Mỹ thi hành “Chiến Dịch Tự Do Giao Thông Hàng Không Hàng Hải” ở hai khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông Nam Á. Một tháng trước đó Tàu Cộng cũng đã phản đối nước Mỹ “xâm phạm lãnh hải và không phận chủ quyền của Hoa Lục Tàu Cộng”
Căn cứ theo Luật Biển 1982 UNCLOS chỉ có những thực thể địa lý, hay hòn đảo thiên nhiên, trước khi được cải tạo xây dựng bồi đấp thêm, cao hơn mực nước lớn ngoài biển thì mới có thể tạo ra vùng lãnh hải 12 hải lý xung quanh. Nếu tàu chiến Hải Quân Mỹ đi tuần tra vào trong phạm vi 12 hải lý của một hòn đảo nhân tạo, được cải tại xây dựng lên từ bãi đá ngầm, rạn san hô lúc nước lớn thì chìm, khi nước ròng thì nổi; như vậy, khi Nhà Nước Tàu Cộng đã cảnh báo nước Mỹ xâm phạm lãnh hải chủ quyền của Hoa Lục thì Tàu Cộng không tuân thủ nghiêm chỉnh Luật Biển 1982 UNCLOS. Sự kiện chiếc khu trục hạm USS Lassen đã thực hiện cuộc hải hành tuần tra trong phạm vi 12 hải lý của hòn đảo nhân tạo Subi Reef do Tàu Cộng chiếm đóng là chứng tỏ không công nhận chủ quyền lãnh hải của Tàu Cộng trong khu vực Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands, và để thử thách Nhà Nước Tàu Cộng có tôn trọng Luật Biển 1982 UNCLOS đã ký kết hay không.
Để duy trì tính chất mơ hồ, lập lờ, gian trá của việc kéo dài thực hiện Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ của Hoa Lục, Bộ Ngoại Giao Tàu Cộng một lần nữa trâng tráo cảnh báo rằng tàu chiến Mỹ đã “bất hợp pháp đi vào vùng-biển-gần-với những thực thể địa lý do Tàu Cộng chiếm giữ trong Biển Hoa Nam”.  Nhóm chữ “vùng biển gần với” trong Hoa ngữ không có nghĩa là “lãnh hải”, nó có nghĩa là “vùng biển phụ cận” hoặc “vùng biển bên cạnh”. Hơn nữa, cái luận điệu trâng tráo hàm hồ của Tàu Cộng cũng đã thay đổi một chút khi nói rằng “hoạt động của Không Quân và Hải Quân Mỹ đã đe doạ chủ quyền và quyền lợi an ninh của Hoa Lục”, nhưng không nói rõ là “chủ quyền và quyền lợi an ninh bị xâm phạm”. Trong thời gian trước Tàu Cộng đã cảnh báo Mỹ là lợi dụng Quyền Tự Do Giao Thông để “xâm phạm” chủ quyền của Hoa Lục, hiện nay Tàu Cộng cũng cảnh báo Mỹ là đã lợi dụng Quyền Tự Do Giao Thông để “làm hại” chủ quyền và quyền lợi an ninh của Hoa Lục. Như vậy rõ ràng là có sự thay đổi từ tính cách “xâm phạm” thành ra tính cách “làm hại”
Gần như trong cùng thời gian với bản tuyên-cáo (tuyên bố cáo buộc) của bộ phận ngoại giao, Bộ Quốc Phòng Tàu Cộng cũng đã có một bản tuyên-cáo về sự kiện chiếc khu trục hạm USS Lassen đi tuần tra trong pham vi 12 hải lý của các đảo nhân tạo trong nhóm Quần đảo Trường Sa/Spratly Islands, và bộ phận quốc phòng cũng đã tránh né đề cập tới “lãnh hải”, thay vào đó là những nhóm chữ “vùng biển phụ cận” hoặc “vùng biển khơi tiếp nối”.  Bộ Quốc Phòng Tàu Cộng cũng đã tránh không đề cập tới các hoạt động phi hành, hải hành tuần tra của Mỹ là bất hợp pháp, nhưng “dán-nhản” cho những hành động quân sự này là “lạm dụng quyền tự do giao thông hàng không hàng hải” của luật pháp quốc tế, và còn cảnh báo nước Mỹ là “đe doạ nghiêm trọng nền an ninh quốc gia của Hoa Lục”, mặc dù không cần thiết là “xâm phạm chủ quyền” của Hoa Lục Tàu Cộng.
Như vậy quá rõ ràng là Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã tránh né không đề cập gì tới chủ quyền lãnh hải 12 hải lý của các hòn đảo nhân tạo trong nhóm Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands, cũng như không chỉ định rõ rệt những khu vực biển nào trong vùng Biển Đông Nam Á là thuộc chủ quyền của Hoa Lục Tàu Cộng. và Tàu Cộng cũng không xác định là Không Quân Mỹ và Hải Quân Mỹ có xâm phạm chủ quyền của Hoa Lục hay không.
Bằng cách tránh né không đề cập tới “chủ quyền lãnh hải” hay “chủ quyền không phận”, và nhất là không “kết án hành động quân sự của Mỹ là bất hợp pháp”, Tàu Cộng đã rất quỉ quyệt, gian trá duy trì tính chất mơ hồ, lập lờ hai mặt của Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ của Hoa Lục Tàu Cộng thực hiện ở Biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông. Tàu Cộng đã rất quỉ quyệt, gian trá bởi vì phải chống lại mục tiêu của nước Mỹ trong “Chiến Dịch Tự Do Giao Thông” đã gây áp lực mạnh ép buộc Tàu Cộng phải chấm dứt tính chất mơ hồ, lập lờ hai mặt; ngược lại, Nhà Nước Tàu Cộng phải xác định những đòi hỏi quyền lợi nào chính đáng được luật pháp quốc tế công nhận.
Một cách rõ rệt là tính chất mơ hồ, lập lờ hai mặt của Tàu Cộng đã phải dần dần bị huỷ bỏ; cụ thể như vào ngày 28/10/2015 Tàu Cộng đã tuyên-cáo “hành động quân sự của Mỹ đã vi phạm Luật Biển 1982 UNCLOS cũng như Luật Pháp của Hoa Lục Tàu Cộng”. Khi kết án nước Mỹ đã vi phạm Luật Biển 1982 UNCLOS, thì Nhà Nước Tàu Cộng phải căn cứ vào quyền pháp lý tài phán nào đối với những vùng biển nào, và Tàu Cộng đã xác định chủ quyền lãnh hải xung quanh bãi đá ngầm Subi Reefs không; cũng như Tàu Cộng đã công bố một Vùng Đặc Quyền Kinh Tế trong phạm vi Biển Đông Nam Á không, và những đường ranh giới của nó ở đâu.
Đối với những hòn đảo nhân tạo mà Tàu Cộng đã cải tạo xây dựng từ những rạn san hô, bãi đá ngầm thì rõ ràng là Tàu Cộng vẫn chưa dám mạnh dạn, minh bạch, hiển nhiên tuyên bố chủ quyền lãnh hải ở xung quanh những hòn đảo nhân tạo này. Bởi vì Luật Biển 1982/UNCLOS, mà Hoa Lục Tàu Cộng đã ký kết, không công nhận tư cách pháp lý của những hòn đảo nhân tạo như vậy.Tàu Cộng cũng đã không thể nào biện luận cụ thể chính xác kết án các hành động của Hải Quân Mỹ và Không Quân Mỹ thực hiện các cuộc hải hành, phi hành tuần tra trong vùng ADIZ rộng lớn ở Biển Hoa Đông và trong phạm vi 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo của Tàu Cộng ở khu vực Biển Đông Nam Á là bất hợp pháp xâm phạm chủ quyền của Tàu Cộng.
Căn cứ trên việc Tàu Cộng đề nghị thực thi Luật Biển 1982 UNCLOS người ta nhận thấy Tàu Cộng đã diễn dịch giải thích Luật Biển 1982 UNCLOS dựa vào cách hiểu biết của riêng Tàu Cộng và nó rất nghiêm trọng, bởi vì nó biểu lộ cái lập trường có tính chất hai mặt lập lờ và cái quan điểm hàm hồ, mờ ám có âm mưu gian trá. Trên thực tế Hoa Lục Tàu Cộng đã chấp nhận Luật Biển 1982 UNCLOS có chính thức đính kèm một bản công bố các toạ độ của những giới tuyến căn bản. Những giới tuyến căn bản này được dùng để kiểm tra ghi dấu chuẩn mực nước ròng (the low-tide mark) ở dọc theo các bờ biển của một quốc gia, và dựa vào những giới tuyến căn bản này mà tính toán đo đạc ra những lãnh hải chủ quyền và những vùng hải phận thuộc quyền pháp lý tài phán của quốc gia đó.
Một cách rất hàm hồ, trâng tráo và gian trá Hoa Lục Tàu Cộng đã tuyên bố những giới tuyến căn bản của Hoa Lục bao gồm toàn bộ hai nhóm Quần Đảo Hoàng Sa /Paracel Islands và Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands. Đây là một hành động phi pháp, nó cũng không đúng với Luật Biển 1982 UNCLOS; bởi vì chỉ có những quốc gia được cấu tạo bằng các quần đảo, thí dụ như Philippines, Indonesia, mới được phép có những giới tuyến căn bản như vậy. Còn đối với Hoa Lục Tàu Cộng rõ ràng là một quốc gia lục địa, Tàu Cộng không được phép ngang ngược tự cho mình có những giới tuyến căn bản như đã nêu trên để đòi hỏi chủ quyền của cả hai nhóm Quần Đảo Hoàng Sa/Paracel Islands và Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands, rồi sau đó tiếp tục thiết lập mở rộng lãnh hải chủ quyền của Hoa Lục Tàu Cộng độc chiếm cả vùng Biển Đông Nam Á.
Nếu hiểu biết một cách đúng đắn và xem xét một cách khách quan để căn cứ trên Luật Biển 1982 UNCLOS được diễn dịch, giải thích áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thì cả hai quốc gia như CS Việt Nam và Đài Loan cũng không đủ tiêu chuẩn để làm chủ nhân của các bãi đá ngầm, rạn san hô, cồn cát cạn trong hai nhóm Quần Đảo Hoàng Sa/Paracel Islands và Quần Đảo Trường Sa/ Spratly Islands như họ đã từng làm rồi.
Trong cùng lúc thực hiện Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ của Hoa Lục, những người cầm quyền Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã lợi dụng tính chất phức tạp của Luật Biển 1982 UNCLOS để diễn dịch, giải thích luật theo chủ quan có lợi cho Hoa Lục; hơn nữa, Tàu Cộng đã dựa vào ưu thế sức mạnh kinh tế và quân sự của một nước lớn trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á để chèn ép những đối phương nước nhỏ trong vấn đề tranh chấp chủ quyền của các nhóm đảo và các vùng biển liên quan. Quả thật, Tàu Cộng đã đang đòi hỏi chủ quyền của các nhóm đảo và các vùng biển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á một cách hàm hồ, phi lý, trâng tráo, và gian trá nhất khi Tàu Cộng cứ kiên định một lập trường độc chiếm Biển Đông Nam Á gồm có cả hai nhóm Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng lời lẽ nguỵ biện là Hoa Lục Tàu Cộng đã từng có chủ quyền của khu vực này trên mặt đất từ thời cổ đại!
Nếu nói theo cái luận điệu giáo điều trí thức cộng sản của Đảng Trưởng Tàu Cộng Xi hiện tại thì “thời cổ đại là thời kỳ xưa nhất trong lịch sử con người trên thế giới, đó là giai đoạn phát triển xã hội của chế độ cộng sản nguyên thuỷ và chiếm hữu nô lệ”; như thế thì có lẽ những người cầm quyền Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã học tập thấm nhuần tư tưởng Đảng Trưởng Mao quá độ nên phát điên khùng mà nói sằng bậy rằng tổ tiên của người Hoa Lục vào thời cổ đại là “một thời kỳ mà Tàu Cộng hiện tại đã từng có chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Hoa Lục và đã từng chiếm hữu các dân tộc ít người làm nô lệ, cũng như đồng thời đã từng chiếm hữu cả Biển Hoa Nam, South China Sea mà đúng ra phải gọi là Biển Đông Nam Á, Southeast Asia Sea!
Cũng có một điều đáng ghi nhớ là Đảng Trưởng Tàu Cộng Mao trong thập niên 1960 đã từng điên cuồng muốn chiếm đoạt cả khu vực Đông Nam Á khi khuấy động và yểm trợ các phong trào cộng sản địa phương ở các nước Philippines, Indonesia, Malaysia, Thailand, Miến Điện, Việt-Miên-Lào đồng loạt nổi dậy chống chính phủ của các nước sở tại. Trong trường hợp các đảng cộng sản Mao-ít ở các nước Đông Nam Á này nổi dậy thành công cướp chính quyền, thì họ phải chịu lệ thuộc phục tùng Đảng Trưởng Tàu Cộng Mao, đúng không? Sau khi Mao chết thì Tư Tưởng Mao và những tên Mao-ít ở các nước địa phương đã từng và đang, cũng như sẽ còn âm mưu chiếm đoạt từng phần hoặc cả khu vực Đông Nam Á. Không phải ngẩu nhiên trùng hợp, mà đúng là di truyền, thừa kế chính thống của Mao nên Đảng Trưởng Tàu Cộng Xi hiện tại đúng là một tên Mao-ít bề thế nhất ở Á Châu vẫn còn giữ ý định độc chiếm Biển Đông Nam Á và khống chế các quốc gia trong khu vực có liên quan.
Ở đây người viết muốn nêu rõ tính chất hàm hồ, trâng tráo, và gian trá của Tàu Cộng trong lúc thực hiện Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ ở khu vực Đông Nam Á có liên quan tới vấn đề chủ quyền của các nhóm đảo và các vùng biển, mà Tàu Cộng luôn miệng nói rằng Hoa Lục Tàu Cộng là chủ nhân từ thời kỳ chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Hoa Lục, nên không cần phải tranh cãi nữa. Cũng như các dân tộc ít người, cụ thể như dân tộc Việt đã từng bị tổ tiên của Tàu Cộng bắt làm nô lệ một ngàn năm trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ (!!): cho nên bây giờ cũng phải tiếp tục làm nô lệ cho Tàu Cộng dưới sự trực tiếp cai trị của các quan thái thú Việt Cộng!!  Cái hiện trạng rõ ràng Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang hoàn toàn khống chế Đảng và Nhà Nước Việt Cộng để áp đặt cái ách Tàu Cộng thực dân mới lên nước Việt Nam thuộc địa mới đã đang bị cai trị bởi quan thái thú Việt Cộng. Đây là một vấn đề nghiêm trọng của nội bộ nước Việt Nam, nó cần được người dân Việt giải quyết dứt khoát, và nó nên được nghiêm chỉnh thảo luận ở một bài viết khác.
Để tìm hiểu thêm về những ý định của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng người ta phải chú ý nhận thấy vào năm 1990 Hoa Lục Tàu Cộng đã tham gia những cuộc hội thảo ở nước Nam Dương có tính cách phi chính phủ để thảo luận vấn đề tìm cách giải quyết những cuộc “xung đột tiềm ẩn ở Biển Đông Nam Á mà Tàu Cộng gọi là Biển Hoa Nam, South China Sea”.  Mặc dù lúc đó Tàu Cộng đã không hăng hái thảo luận được gì, nhưng cũng đã đồng ý với Nam Dương sẽ cùng thảo luận chính thức vấn đề này trong cuộc họp thường niên sắp tới của bảy nước thành viên Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á/ASEAN.
Cũng có một điều đáng chú ý hơn nữa, mặc dù Hoa Lục Tàu Cộng là một thành viên sáng lập Diễn Đàn An Ninh Khu Vực Á Châu nhưng Tàu Cộng lại nhất định không muốn vấn đề “xung đột tiềm ẩn ở Biển Đông Nam Á hay Biển Hoa Nam” được nêu ra để thảo luận trên diễn đàn này.  Cũng chính Hoa Lục Tàu Cộng đã cố làm mọi cách để không đề cập tới vấn đề Biển Đông Nam Á hay Biển Hoa Nam trong các văn kiện chính thức có liên quan. Tuy nhiên, Tàu Cộng đã không thể nào gò ép mãi, nên vấn đề có liên quan tới vùng biển trong khu vực Đông Nam Á cũng phải được đề cập một cách chính thức, và Tàu Cộng cũng phải tỏ ra tích cực tham gia trên diễn đàn an ninh khu vực này.
Người ta cũng nhận thấy cái tính chất lập lờ, mờ ám, hai mặt quỉ quyệt của Hoa Lục Tàu Cộng trong lúc thực hiện Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ. Sự hợp tác của Tàu Cộng đã không thành thật vì vào năm 1992 Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã có nghị quyết tái khẳng định chủ quyền của Hoa Lục Tàu Cộng đối với hai nhóm Quần Đảo Hoàng Sa/Paracel Islands và Quần Đảo Trường Sa/Spatly Islands trong Biển Đông Nam Á, và sau đó Tàu Cộng đã bộc lộ ý đồ khai thác những túi dầu thô trong vùng biển cạn trên thềm lục địa của nước Việt Nam.
Một thời gian tiếp theo đó Tàu Cộng đã cưỡng chiếm bãi đá ngầm Mischief Reefs của nước Philippines, đây là một trong số bảy bãi đá ngầm, rạn san hô, cồn cát chìm trong Quần Đảo Trường Sa/Spratly Islands mà Tàu Cộng đã chiếm đóng. Nhà Nước Tàu Cộng đã tỏ thái độ bỏ qua sự phản đối của nước Philippines bằng cái luận điệu nguỵ biện, trâng tráo, gian trá là Tàu Cộng chiếm giữ và cải tạo thành các đảo nhân tạo chỉ với mục đích xây dựng những cơ sở trú ẩn cho ngư phủ của tàu đánh cá vào tránh giông bão ngoài biển khơi. Ngược lại, trên thực tế không phải các ngư phủ tránh giông bão mà đúng là các chiến hạm của Hải Quân Tàu Cộng thường xuyên lui tới những vùng biển này, và Tàu Cộng cũng đã tránh né không thảo luận vấn đề chiếm đóng bãi đá ngầm Mischief Reefs với Philippines trong những cuộc đối thoại hàng năm giữa hai nước.
Rất dễ nhận thấy rằng Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng đã đang thực hiện Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ trong một thời gian rất lâu, có thể nói là ngay từ khi Tàu Cộng cưỡng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của VNCH trong trận hải chiến vào ngày 19/1/1974, rồi âm mưu độc chiếm cả Biển Đông Nam Á và khống chế các nước có liên quan trong khu vực này. Với một chiến lược ngoại giao kinh tế tài chính Nhà Nước Tàu Cộng đã có những nổ lực ràng buộc các nước láng giềng nhỏ yếu kém để họ bị lệ thuộc kinh tế tài chính với Hoa Lục Tàu Cộng khiến cho họ gặp khó khăn nếu họ chống lại Tàu Cộng. Trong cùng lúc Tàu Cộng tiến hành chiến lược vết dầu loang dần dần lấn đất, lấn biển, và chiếm đảo thay đổi nguyên trạng, tạo sự đã rồi.  Cũng có một điều tế nhị nhưng rất hàm hồ trong Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ, đó là cái “Nguyên Trạng” khi yêu cầu Tàu Cộng ngưng lấn đất, lấn biển, chiếm đảo, rồi giữ “nguyên trạng”. Như vậy cần phải hỏi cho rõ ràng cái “Nguyên Trạng” là thế nào? “nguyên trạng” là trước khi Tàu Cộng chiếm đóng hay “nguyên trạng” là sau khi Tàu Cộng đã chiếm đóng rồi cải tạo xây dựng các cơ sở quân sự ở đó?


Đã tới lúc Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng phải chấm dứt thực hiện cái Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ ở khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông Nam Á, bởi vì tính cách hàm hồ, lập lờ, gian trá để đòi hỏi chủ quyền lãnh hải và các nhóm đảo nhân tạo hay các đảo đang tranh chấp không ai có thể chấp nhận.  Chỉ có một điều quan trọng nhất và các nước hữu quan trong khu vực Biển Đông Nam Á có thể chấp nhận được là những đòi hỏi chủ quyền đối với hải đảo và lảnh hải liên quan phải được căn cứ trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là Luật Biển 1982/UNCLOS. Chỉ có chấm dứt cái Chính Sách Cố Ý Hàm Hồ, còn gọi là cái Chính Sách Chiến Lược Bất Trắc của Đảng và Nhà Nước Tàu Cộng thì mới có thể duy trì và tăng cường sự ổn định khu vực Biển Đông Nam Á./.

 

Nguyễn Thành Trí                                                                                                    Sài Gòn, 30/11/2015 

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

PLEASE, DON’T ABANDON THE REFUGEES

                                                                                                                                PLEASE, DON’T ABANDON THE REFUGEES

 


Dr. Tristan Nguyen
The Refugees are the Victims, they must leave behind their properties and take risk of their lives to flee and seek safer places to live; so they’ve been trying their best to evade the cruelty of an authoritarian regime, and/or the brutality of terrorist violence. Obviously, the Refugees are the Victims. They are not the disgustedly dehumanizing terrorists. The generous countries are always tolerant, benevolent, and that is strength against barbaric cruelty. Moreover, the nations with benevolence and kindness are always not afraid of the vandalistic extremists and/or the insane terrorists; so the magnanimous nations certainly do not abandon the refugees.

At the Friday night of November 13, 2015 in Paris the Capital of France, there was a wide range of terrorist attacks by the suicide bombers and shooting at the innocent civilians. The terrorists killed 129 people and injured 352 people of different nationalities while they were watching the soccer matches between France and Germany, or enjoying the music performances, or sipping their favorite coffee in the coffee shop. Generally, they've been enjoying the lifestyle of well-being, pleasure, and freedom in Paris the Light Capital of France, then suddenly the terrorists appeared and robbed them of their happiness and their precious lives, too.

The disgusted terrorists not only killed the innocent civilians but they also caused a serious psychological impact for the people in the European countries with fear and distrust toward the Muslim refugees from the war-torn countries like Iraq, Afghanistan, and Syria.  With fear and distrust the Europeans suspect the Muslim refugees of terrorism.  However, please do not assimilate the truthful refugees with the disgustedly real terrorists because the refugees have had to flee the disgusted terrorists and the destruction by the war, they were not the certain terrorists in the past.

In some circumstances the disgustedly real terrorists probably could disguise as the pitiful refugees, but among thousands of refugees there might have been one or two disguised terrorists hiding in the refugee community; however, sooner or later they will certainly be detected.  In such a situation you should not be afraid of some suspicious terrorists to leave many thousands of refugees who have been enduring their mental and physical pain from brutality of terrorist violence and/or cruelty of authoritarian regime in homeland, and now they need to be rescued. The refugees are the people who have been trying to find temporary safer places, kind of an asylum, and/or a resettlement so that they will be able to continue to live and work according to their abilities. Obviously, the refugees are not the terrorists who had committed crimes at the Friday night of November 13, 2015 in Paris the Capital of France.

Recently, series of terrorist attacks happened within a short period of time in Paris also have created a strong influence on a number of governments in some European countries, and caused them to reconsider the decision to receive refugees for resettlement in their countries in the near future. Specifically, the Polish Government now speaks out to deny an acceptance of 4500 refugees as it previously agreed under the share distribution plan for resettlement of refugees across the EU block. Also, the country of Slovak still rethinks that there is too big security risk relating to the resettlement of refugees in its country; therefore, Slovak now strongly does not accept any refugee. Completely different from these two countries, Germany is steadfastly implementing the policies "Open-Arms" to receive eight hundred thousand refugees who are entitled to resettle for their new lives in Germany in 2015.

When objectively considering the events of terrorist attacks killed and wounded many innocent civilians, it finds out that actually domestic terrorism because the local terrorists in France or in other European countries. They implemented the terrorist attacks not from the Islamic extremists in foreign countries who could sneak into inland. Specific examples are as follows:

(1)A series of bomb explosions on the city transit trains in 2004 in Madrid killed 191 and wounded 1,800 passengers. These series of terrorist attacks were carried out by a group of Spanish citizens with their birth originals from Morocco, Syria, Algeria, and two informants of the Spanish Police who coordinated actions of crimes. Obviously, these disgusted terrorists are not the refugees.

(2) A series of terrorist suicide bombings collaborated on July 07, 2005 in London that killed 52 people and injured more than 700 people. These domestic terrorist attacks were done by four British citizens, three of them were born in Britain and had been living in the city of Leeds, and the other was a Jamaican immigrant who settled in England and had been living in the city of Buckinghamshire. Very clearly, these domestic terrorists are not the refugees.

(3)Happening terrorist attacks the satirical newspaper offices of Charlie Hebdo and a Jewish owner’s supermarket in Paris on the day of January 07, 2015 killed 20 people and injured 11 people. These terrorist attacks were done by three French citizens who were born in France with Algerian origin. Clearly, all of them are not the refugees.

The domestic terrorist attacks occurred in the three countries of Spain, England, and France have set out on the similar domestic terrorism cases occurred in the United States, those are not caused by the refugees. Some specific examples of the domestic terrorist attacks in the United States are typical as follow:

(4) On April 19, 1995 the two domestic terrorists named Timothy McVeigh and Terri Nichols detonated two strong destructive bombs to destroy the federal government buildings in Oklahoma City, Oklahoma, killed 168 and injured 680 people.

(5) On April 15, 2013 while the Boston Marathon was taking place almost near the final line, the two domestic terrorists named Dzhokhar Tsarnaev and Tamerian Tsarnaev detonated two home-made pressure-cooker bombs that killed 3 and injured 264 spectators around.

As objectively commented viewpoint, it is obvious that the killers in domestic terrorist cases in the free countries are not the refugees. Because the refugees are certainly not the terrorists, and for a reasonable understanding as the refugees are trying to find safer places, kind of asylum, where they can be protected, and/or can be resettled so that they can rebuild their new lives in a foreign land.

Of course, the result of horrific terrorist attacks at the Paris Friday night of November 13, 2015 also put a strong pressure on the American politicians in the US. Understandably, it is their concern and attention of statewide security due to their responsibilities in the state administration within the US. The currently so bad situation relating the refugees and terrorists has been such developing in American politicians’ mindset, that urged 31 State Governors, most of them are Republicans, have voiced their unwillingness to accept the refugees for resettlement in their states.

Although the constitutional competence to admit the refugees into the US belongs to the federal authority, there certainly are many obstacles in the implementation of refugee distribution to be resettled in each state without its governor’s cooperation, Moreover, the US presidential candidates of the Republican Party also spoke out their arguments against the admission of more refugees into the US.  In spite of the very big political obstacles and the heavy criticism, President Obama firmly decided not to change the programs admitting ten thousand Syrian refugees in 2016.  

The Syrian refugees clearly are not the cause of terrorist attacks and they also are not the perpetrators of terrorism at the Paris Friday night of November 13, 2015. If we convict the refugees of terrorism, then obviously we do not understand that they, the refugees, have refused terrorism; accurately to say that they have been fleeing those who had used violence to intimidate, to destroy peacefully happy life, and to murder. Therefore, the refugees and the terrorists are two obviously complete different components.  We cannot merge both of them into one problem, because each has its own solution.

In conclusion, the writer of this article himself is also a refugee, Refugee of Vietnamese Communism, alike the majority of Vietnamese Refugees fleeing the communist country, he has a deep sympathy with all refugees as well as victims of all kind everywhere. Because the refugees are the people who do not have peace, in danger and need to be evacuated
, and/or must be rescued. If forty years ago the United States and the other free countries had not rescued, had not tolerated, and had not allowed for asylum and/or resettlement; then the writer and the majority of Vietnamese refugees could not get the present good lives of today . Therefore, now the writer earnestly requests the competent decision makers in the generous, tolerant nations, "Please, Don’t Abandon The Refugees"./.

Dr. Tristan Nguyen
San Francisco, November 18, 2015

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

XIN ĐỪNG BỎ RƠI NGƯỜI TỊ NẠN

XIN ĐỪNG BỎ RƠI NGƯỜI TỊ NẠN                                                                  Dr. Tristan Nguyễn

Người Tị Nạn là nạn nhân, họ phải bỏ lại tài sản và mạo hiểm mạng sống của họ  để đi lánh nạn và tìm những nơi sống an toàn hơn; cho nên họ đã đang cố gắng hết sức để trốn tránh sự tàn ác của một chế độ độc tài thống trị, hoặc sự dã man của bạo lực khủng bố. Người Tị Nạn rõ ràng là nạn nhân, họ không phải là những kẻ Khủng Bố mất tính người. Những quốc gia hảo tâm luôn có tấm lòng bao dung tử tế và đó chính là sức mạnh chống lại sự tàn ác dã man. Hơn nữa, những quốc gia hảo tâm, nhân ái luôn không sợ những kẻ phá hoại quá khích, khủng bố điên cuồng; cho nên họ không bỏ rơi người tị nạn.
Trong buổi tối thứ Sáu ngày 13/11/2015 tại thủ đô Ba-Lê nước Pháp có một loạt các vụ tấn công của khủng bố bằng bom tự sát và xả súng bắn vào người thường dân đã giết chết 129 người và làm bị thương 352 người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau khi họ đang xem trận thi đấu bóng đá giữa hai nước Pháp và Đức, hoặc đang thưởng thức buổi trình diễn ca nhạc, hoặc đang nhấm nháp mùi vị cà phê ở quán cà phê. Nói chung là họ đang hưởng thụ cái lối sống tự do, vui vẻ, thoải mái ở Thủ Đô Ánh Sáng Ba-Lê, thì bất ngờ những kẻ khủng bố xuất hiện cướp đi hạnh phúc cũng như mạng sống quí giá của họ.
Những kẻ khủng bố chẳng những đã giết người vô tội mà chúng còn gây ra một ảnh hưởng tâm lý nặng nề cho người dân ở các nước Châu Âu với nỗi lo sợ và nghi kỵ người dân Hồi Giáo tị nạn đến từ các nước đang có chiến tranh như Iraq, Afghanistan, và Syria. Người dân Châu Âu lo sợ và nghi kỵ người dân Hồi Giáo tị nạn là những kẻ khủng bố. Tuy nhiên, không nên đồng hoá người tị nạn chân thật với những kẻ khủng bố quỉ quyệt, bởi vì người tị nạn đã phải trốn tránh những kẻ khủng bố và sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, họ nhất định không phải là những kẻ khủng bố.
Ngược lại, những kẻ khủng bố quỉ quyệt có lẽ đã có thể giả dạng làm người tị nạn, nhưng trong số một ngàn người tị nạn có thể có vài tên khủng bố ẩn núp trong cộng đồng tị nạn, mà không sớm thì muộn chúng cũng sẽ bị phát hiện. Tình hình như thế thì không nên vì lo sợ, nghi kỵ có một vài tên khủng bố, mà bỏ rơi nhiều ngàn người tị nạn đang chịu đựng đau thương, khổ sở, và họ đang rất cần được cứu giúp. Người tị nạn là những người đang cố gắng tìm nơi tạm dung để họ có thể tiếp tục sống và làm việc theo khả năng của họ. Họ rõ ràng không phải những kẻ khủng bố đã gây tội ác trong buổi tối thứ Sáu ngày 13/11/2015 ở Ba-Lê. 
Sự kiện khủng bố Ba-Lê vừa qua cũng đã tạo được một ảnh hưởng mạnh lên một số chính phủ của một số quốc gia Châu Âu khiến cho họ phải xét lại cái quyết định tiếp nhận người tị nạn để tái định cư trong nước của họ trong tương lai gần. Cụ thể như chính phủ Ba Lan bây giờ lên tiếng từ chối tiếp nhận 4500 người tị nạn như trước đây đã đồng ý theo kế hoạch chia sẻ phân phối tái định cư người tị nạn trong toàn khối Liên Âu. Còn nước Slovak thì nghĩ rằng có những nguy cơ an ninh quá lớn liên quan tới việc tái định cư người tị nạn trong nước của họ, nên Slovak bây giờ mạnh mẽ từ chối tiếp nhận bất cứ một người tị nạn nào.  Một cách khác biệt rõ rệt, nước Đức vẫn cương quyết thực hiện chính sách “Mở-Rộng Vòng-Tay/Open-Arms” tiếp nhận tám trăm ngàn người tị nạn được quyền tạm dung ở nước Đức trong năm 2015.  
Khi xem xét một cách khách quan các sự kiện đã xảy ra của những kẻ khủng bố đã phạm tội ác giết người dân lương thiện, người ta nhận thấy đó là khủng bố nội địa do những kẻ khủng bố ở trong nước Pháp hoặc ở trong các nước Châu Âu khác thực hiện chứ không phải do những phần tử cực đoan Hồi Giáo quá khích ở nước ngoài xâm nhập vào trong nội địa. Thí dụ cụ thể như sau:

(1) Vụ nổ bom trên xe lửa vào năm 2004 ở thành phố Madrid giết chết 191 người và làm bị thương 1800 người. Vụ khủng bố này đã do một nhóm công dân Tây Ban Nha gốc người Maroco, Syria, Algeria, và hai tên mật báo viên của Cảnh Sát Tây Ban Nha phối hợp hành động gây tội ác. Rõ ràng những tên khủng bố này không phải người tị nạn.

(2) Một loạt những kẻ khủng bố hợp tác làm nổ bom tự sát vào ngày 7/7/2005 ở thành phố Luân Đôn đã giết chết 52 người và làm bị thương hơn 700 người. Vụ khủng bố nội địa này là do bốn người công dân Anh, có ba người sinh quán trong nước Anh đang sống tại thành phố Leeds, và một người kia là di dân Jamaica định cư ở Anh đang sống tại thành phố Buckinghamshire. Rất rõ ràng những tên khủng bố này cũng không phải người tị nạn.
(3) Vụ khủng bố tấn công toà soạn tờ báo châm biếm Charlie Hebdo và một cửa hàng siêu thị người Do Thái ở thành phố Ba-Lê vào ngày 7/1/2015 đã giết chết 20 người và làm bị thương 11 người.  Vụ khủng bố này là do ba công dân Pháp nguồn gốc Algerian sanh tại Pháp. Tất cả họ đều không phải người tị nạn. 
Các vụ khủng bố nội địa đã xảy ra ở ba nước Tây Ban Nha, Anh, và Pháp vừa được nêu trên cũng tương tự như các vụ khủng bố nội địa đã xảy ra ở nước Mỹ đều không phải do người tị nạn gây ra. Thí dụ cụ thể vài vụ khủng bố nội địa điển hình ở nước Mỹ là:
(4)  Vào ngày 19/4/1995 hai tên Timothy McVeigh và Terri Nichols đã nổ bom phá hoại toà nhà chính phủ liên bang ở thành phố Oklahoma, tiểu bang Oklahoma, làm chết 168 người và làm bị thương 680 người.
(5) Vào ngày 15/4/2013 trong lúc cuộc chạy Marathon của thành phố Boston đang diễn ra gần mức kết thúc thì hai tên Tamerian Tsarnaev và Dzhokhar Tsarnaev đã làm cho hai trái bom nổ giết chết ba người, làm bị thương 264 người.
Khi nhận xét một cách khách quan, rõ ràng là những hung thủ giết người trong các vụ khủng bố nội địa ở các nước tự do đều không phải người tị nạn. Bởi vì người tị nạn chắc chắn là không phải những kẻ khủng bố; và vì một cách dễ hiểu là họ đã đang cố gắng tìm nơi tạm dung hoặc nơi bình an được tái định cư để họ có thể xây dựng lại cuộc sống mới của họ ở đất khách quê người.
Lẽ tất nhiên là hậu quả của các vụ khủng bố kinh hoàng ở Ba-Lê vào buổi tối thứ Sáu 13/11/2015 cũng ảnh hưởng mạnh mẽ lên những người làm chính trị ở nước Mỹ. Cũng dễ hiểu sự quan tâm lo lắng của họ đối với nền an ninh quốc gia ở tiểu bang do họ trách nhiệm quản trị trong Liên Bang Mỹ. Tình hình đã diễn tiến như vậy nên ở nước Mỹ đã có 27 vị Thống Đốc tiểu bang đều thuộc Đảng Cộng Hoà đã lên tiếng không muốn tiếp nhận người tị nạn đến tái định cư trong tiểu bang của họ.  Mặc dù thẩm quyền hiến định tiếp nhận người tị nạn vào nước Mỹ là của liên bang, nhưng việc thực hiện phân bố người tị nạn được tái định cư ở các tiểu bang mà không có sự hợp tác của các vị thống đốc thì thật là trở ngại nhiều thứ. Hơn nữa, các ứng cử viên tổng thống Mỹ thuộc Đảng Cộng Hoà cũng đã tranh luận với lập trường không tiếp nhận thêm người tị nạn vào nước Mỹ. Tuy là đang có những trở ngại lớn như vậy, và những chỉ trích nặng nề, nhưng TT Obama vẫn quyết định không thay đổi các chương trình tiếp nhận mười ngàn người Syrian tị nạn trong năm 2016.  
Người tị nạn Syrian không phải là nguyên nhân gây ra các vụ khủng bố và họ cũng không phải là hung thủ khủng bố trong đêm thứ Sáu 13/11/2015 ở thành phố Ba-Lê. Nếu kết tội người tị nạn là những kẻ khủng bố, thì rõ ràng không hiểu rằng họ, những người tị nạn, đã đang lánh nạn khủng bố; phải nói chính xác là họ đã đang trốn tránh những kẻ dùng bạo lực để gây sợ hãi, để huỷ hoại nếp sống vui vẻ bình yên, để giết người. Vì vậy, người tị nạn và kẻ khủng bố là hai thành phần rõ ràng hoàn toàn khác nhau, không thể nhập chung cả hai lại làm một vấn đề, vì mỗi thứ có cách giải quyết riêng của nó.
Để kết luận, chính bản thân của người viết bài này cũng là một người tị nạn, Tị-Nạn Việt-Cộng, cũng giống như đa số người Việt tị nạn cộng sản, nên đương sự có một cảm thông sâu sắc với tất cả người tị-nạn các-loại ở khắp nơi. Bởi vì người tị nạn là những người không được bình an, bị lâm nguy, cần phải lánh nạn, và cần được cứu giúp. Nếu bốn mươi năm trước nước Mỹ và các nước tự do đã không cứu giúp, không cho tạm dung, và không cho phép tái định cư, thì đương sự và đa số người Việt tị nạn không có được cuộc sống tốt đẹp của ngày nay. Vì vậy, bây giờ đương sự tha thiết yêu cầu những người có thẩm quyền quyết định ở các quốc gia hảo tâm, bao dung, “Xin Đừng Bỏ Rơi Người Tị Nạn”./.
 Dr. Tristan Nguyễn                                                                                              San Francisco, 18/11/2015


Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

TRUNG CỘNG TRÂNG TRÁO VÔ LIÊM SỈ!

TRUNG CỘNG TRÂNG TRÁO VÔ LIÊM SỈ!
Thuỷ-Triều 

 
Đức Đạt-Lai Lạc-Ma nhận Huy Chương Vàng của Quốc Hội Mỹ do TT Bush trao tặng


Viên Bí Thư Cộng Sản Tây Tạng, Zhang Qingli, một uỷ viên trung ương của đảng Trung Cộng đã quá sức trâng tráo vô liêm sỉ khi lên tiếng phản đối Hoa Kỳ trao tặng Huy Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ cao quí cho Đức Đạt Lai Lạc Ma vị lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng. Sau đây là nguyên văn lời nói trâng tráo vô liêm sỉ của một đảng viên CS Tây Tạng đã bị đồng hoá Trung Cộng tên Zhang Qingli, " We are furious. If the Dalai Lama can receive such an award, there must be no justice or good people in the world." Tạm dịch ra tiếng Việt là "Chúng tôi giận dữ. Nếu Đức Đạt Lai Lạc Ma có thể nhận được một huy chương như thế, thì chắc là không có một chút công lý hay một người tốt nào ở trên thế gian này." Thật rõ ràng đây là một lời ganh tỵ quá đỗi mất nhân cách không biết hổ thẹn là gì! Có một đảng viên Trung Cộng nào có thể nhận được một Huy Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ để tuyên dương công trạng của những thành quả hoạt động vì hoà bình, bác ái, bất bạo động, dân chủ và tự do cho nhân dân hay không?

Đảng Trung Cộng luôn luôn xem Đức Đạt Lai Lạc Ma như là một người ly khai, phản bội tổ quốc, kẻ thù nguy hiểm của Trung Cộng. Tuy nhiên, tổ quốc của Đức Đạt Lai Lạc Ma không phải là Trung Hoa Lục Địa, tổ quốc thân yêu của ông là Cao Nguyên Tây Tạng, một lãnh thổ độc lập với đầy đủ các yếu tố thành lập của một quốc gia là dân số chủng tộc, ngôn ngữ, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo, văn hoá truyền thống, phong tục tập quán, kinh tế tài chánh, thể chế chính trị, hoàn toàn khác biệt với Hoa Lục trước ngày những người Trung Cộng xua quân xâm lăng chiếm đóng Cao Nguyên Tây Tạng từ năm 1950, một năm sau khi những người Trung Cộng chiếm lấy trọn Hoa Lục vào năm 1949 để dựng lên nước Trung Cộng cho tới nay

Hãy nhìn kỹ vào lá Quốc Kỳ Tây Tạng-Tibet National Flag, vào năm 1934 rất khác với lá Quốc Kỳ Trung Hoa Đài Loan, và càng khác xa với lá Quốc Kỳ Trung Cộng chính thức được công nhận vào năm 1949. Ngay cả Quốc Dân Đảng Trung Hoa triều đại Tưởng Giới Thạch cũng không dám xác định là đã từng cai trị Cao Nguyên Tây Tạng.

Bởi vì lịch sử Trung Quốc là những chuỗi xâm chiếm đất đai đô hộ những chủng tộc ở những nước nhỏ láng giềng để đồng hoá bành trướng lãnh thổ cai trị, cho nên tập đoàn xã hội chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Cộng đã ngộ nhận một cách tham lam là Cao Nguyên Tây Tạng đã từng là lãnh thổ của họ trong mấy trăm năm. Mấy trăm năm nhân dân Tây Tạng bị sự đô hộ của Giặc Tàu, nên bây giờ tập đoàn xã hội chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Cộng vẫn còn đòi quyền thống trị Tây Tạng xuyên qua bàn tay của những đảng viên CS Tây Tạng đồng hoá Trung Cộng. Tương tự như vậy, nhân dân Việt Nam đã từng bị Giặc Tàu đô hộ một ngàn năm, nên bây giờ tập đoàn xã hội chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Cộng cũng có thể tham lam đòi quyền chiếm giữ sở hữu những vùng-đất-vùng-biển-vùng-trời của Việt Nam xuyên qua bàn tay của những đảng viên Việt Cộng nô lệ đã bị đồng hoá Trung Cộng!?

Mọi người đều biết rõ khi một đảng chính trị cầm quyền không đại diện chính thống cho toàn dân thì sự quản lý đất nước chỉ là một hành động cướp giật chính quyền của nhân dân và liên tiếp phải sử dụng bạo lực trấn áp sự phản kháng của nhân dân. Rất rõ ràng là một đảng chính trị không thể mạo xưng mình là toàn dân, nhất là khi đảng chính trị đó lại có những hành động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại đạo đức và lương tâm của nhân dân. Lời phân tích vừa rồi rất đúng với trường hợp của hai đảng Trung Cộng và Việt Cộng. Cả hai Trung Cộng và Việt Cộng đều đã cướp giật chính quyền của nhân dân, họ giữ lấy và củng cố chính quyền bằng bạo lực vì nhân dân Trung Quốc và nhân dân Việt Nam đã đang và sẽ không có tiếng nói thực sự đại diện cho nhân dân.

Cả hai đảng Trung Cộng và Việt Cộng không hơn gì hai đảng cướp, và đã cướp giật chính quyền của nhân dân. Khi hai đảng này đã trao đổi mua bán vùng-đất-vùng-biển-vùng-trời của nhân dân một cách lén lút, không có sự đồng thuận của nhân dân, thì cũng giống như sự trao đổi và chiếm hữu những tài sản ăn cắp của nhân dân; tất nhiên sự trao đổi và chiếm hữu này là bất chính, vi phạm công pháp. Sẽ có một ngày nhân dân Việt Nam lôi cả hai đảng cướp Trung Cộng và Việt Cộng ra toà án quốc tế để xét xử vụ trao đổi mua bán vùng-đất-vùng-biển-vùng-trời của nước Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc cũng sẽ sáng suốt nhận thấy sự bất chính của hai đảng cướp Trung Cộng và Việt Cộng đã ký kết với nhau vì tư lợi chứ không phải vì lợi ích của nhân dân. 

Đảng cướp Trung Cộng không phải là người đại diện chính thống của nhân dân Trung Quốc, vì đảng cướp Trung Cộng vẫn còn chưa trả lại tiếng nói thực sự của nhân dân Trung Quốc.

Nhân dân Trung Quốc hoàn toàn thất vọng đối với đảng Trung Cộng vì đã trải qua hơn 60 năm dài, lòng ước muốn dân chủ tự do của nhân dân vẫn chưa được thoả mãn. Nguyên văn lời thú nhận của Hồ Cẩm Đào là "Trong khi thừa nhận những thành quả, chúng ta cũng phải nhận thấy chúng ta chưa đáp ứng được mong đợi của người dân," và Hồ Cẩm Đào lại chỉ hứa hẹn suông "mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa", nhưng không nói rõ ý nghĩa nội dung của nó là gì; trong khi đó phát ngôn viên của Đại Hội 17 đảng Trung Cộng đã tuyên bố Trung Cộng không bao giờ cho phép áp dụng dân chủ kiểu Tây Phương.

Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có lần giải thích "dân chủ xã hội chủ nghĩa" cụ thể dễ hiểu như sau "dân chủ thì giống như mấy chú có những vật gì đó mà mấy chú làm chủ". Còn "dân chủ tập trung" theo chủ trương của đảng Việt Cộng thì giống như "những vật của mấy chú làm chủ thì được gom lại bỏ vào trong cái túi của bác." Bây giờ Hồ Cẩm Đào lại nói "mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa" thì rõ ràng là ám chỉ hành động của tập đoàn lãnh đạo Trung Cộng tham lam muốn "mở rộng những cái túi tham không đáy để nhồi nhét thêm vào tài sản ăn cướp được từ nhân dân Trung Quốc" trong thời gian sắp tới 50 năm nữa!!

Tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng đã đang cố sức tạo ra vẻ mặt bề ngoài của Trung Quốc là một xã hội hòa hợp, trong khi thực tế hàng ngày có hàng trăm vụ người nông dân tập trung biểu tình khiếu kiện đòi bồi thường ruộng đất nhà cửa bị trưng thu; công nhân lao động biểu tình đòi tăng tiền lương và đòi cải thiện đời sống của người dân ở khắp Hoa Lục. Hơn nữa, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền Trung Quốc cho biết là nhà cầm quyền Trung Cộng luôn luôn kiểm tra ngăn chặn sự di chuyển của những người bất đồng chính kiến và siết chặt kiểm soát các giới truyền thông trong nước cũng như kiểm tra gắt gao việc Công Dân Liên Mạng ở Trung Quốc- Chinese Netizens sử dụng liên mạng toàn cầu-WWW. 

Trong những năm qua tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng quá đỗi trâng tráo vô liêm sỉ trong việc giành lấy quyền tấn phong Tân Giám Mục Công Giáo ở Trung Quốc. Giáo Hội Công Giáo Quốc Doanh do tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng kiểm soát bổ nhiệm không cần tham khảo ý kiến của Giáo Hội La Mã. Các Đức Giáo Hoàng đã bày tỏ sự "buồn lòng sâu sắc" về quyết định của Trung Cộng trong việc bổ nhiệm giám mục mà không đúng quy tắc của Giáo Hội La Mã. Việc bổ nhiệm các vị Tân Giám Mục không có sự công nhận chính thức của Giáo Hội La Mã, mặc dù giữa tập đoàn lãnh đạo Trung Cộng và Giáo Hội La Mã đã có những nổ lực hoà giải với nhau.

Sự ngang ngược giành lấy quyền tấn phong Tân Giám Mục Công Giáo của Trung Cộng đã xảy ra gần đây nhất là vào ngày 29/6/2011 Trung Cộng đã tấn phong một linh mục cộng sản quốc doanh lên làm tân giám mục ở giáo phận Lạc Sơn thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Hãy thử tưởng tượng những kẻ vô thần Trung Cộng (Chinese Communist's Atheism) giành hết quyền bổ nhiệm tất cả các hàng giáo phẩm trong nước, như vậy có phải là "mở rộng dân chủ XHCN bành trướng bá quyền" hay không?!!

Chẳng những tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng tiếm quyền tấn phong tân giám mục công giáo, họ còn quyết liệt cướp giật quyền "Đầu Thai" của Đức Đạt Lai Lạc Ma! Tập đoàn lãnh đạo đảng cướp Trung Cộng đã cho phổ biến một bản quy định mới nhằm kiểm soát việc lựa chọn Đức Đạt Lai Lạc Ma kế tiếp làm thủ lãnh tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng.
Nhân dân Tây Tạng tin rằng những vị tu sĩ đạo hạnh cao như Đức Đạt Lai Lạc Ma hiện tại sẽ đầu thai chuyển thế trở lại sau khi qua đời. 

Tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng vẫn luôn luôn nghĩ rằng Đức Đạt Lai Lạc Ma hiện tại là "kẻ thù nguy hiểm" của Trung Cộng, và đây là lý do chính khiến những kẻ vô thần Trung Cộng muốn kiểm soát việc đầu thai của các "Phật Sống" vì các 'Phật Sống' được nhân dân Tây Tạng tin tưởng là linh hồn của các tu sĩ đạo hạnh đời trước đầu thai chuyển thế trở lại. 

Có một điều khoản trong bản qui định của những kẻ vô thần Trung Cộng này viết là "Không tổ chức hay cá nhân bên ngoài nào được gây ảnh hưởng hay kiểm soát việc đầu thai của Phật Sống." Bản quy định cũng còn đòi hỏi mọi sự "đầu thai của các tu sĩ lãnh đạo các cấp" phải được các cấp chính quyền Trung Cộng địa phương thông qua!! Trong trường hợp một vị tu sĩ cao cấp nhất như Đức Đạt Lai Lạc Ma kế tiếp thì tập đoàn lãnh đạo trung ương của đảng cướp Trung Cộng ra quyết định chọn người đầu thai!!!! Mặc dù họ không nhắc tên của Đức Đạt Lai Lạc Ma hiện tại, nhưng thực sự những kẻ vô thần Trung Cộng muốn ngăn cản tất cả những người ủng hộ ông ở hải ngọai chọn ông đầu thai. 

Tuy nhiên, toàn thể những người Tây Tạng ở hải ngoại đã tuyên bố bản quy định mới của Trung Cộng sẽ không ảnh hưởng gì tới việc chọn Đức Đạt Lai Lạc Ma kế tiếp. Ông Thubten Samphel, phát ngôn viên của chính phủ Tây Tạng lưu vong, đã có tuyên bố quyền lựa chọn Đức Đạt Lai Lạc Ma kế tiếp thuộc về tổ chức Phật Giáo Tây Tạng chính thống có thẩm quyền; quyền đó không thuộc về tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng. 

Vào ngày 16/10/2007 ở Bắc Kinh có một tên Trung Cộng vô thần đứng đầu Tôn Giáo Vụ Trung Quốc (Atheist Red China's Top Religious Affairs Official) đã trâng tráo lên tiếng phỉ báng buổi lễ trao Huy Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ cho Đức Đạt Lai Lạc Ma là một "trò hề" và hắn kêu gọi Đức Đạt Lai Lạc Ma hãy bỏ đi những ước muốn cho Tây Tạng độc lập. Không phải chỉ có Đức Đạt Lai Lạc Ma nhận được Huy Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ, mà có cả Mẹ Teresa, ông Nelson Mandela cựu TT Nam Phi, ông Martin Luther King, và Đức Giáo Hoàng John Paul II cũng đã nhận được huy chương cao quí này vì những công trạng phục vụ nhân dân, vị tha, bác ái, và kiên trì đấu tranh bất bạo động vì hoà bình, dân chủ, tự do cho nhân dân. 

Một cách quá đỗi trâng tráo vô liêm sỉ, tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng luôn luôn phàn nàn mỗi khi một lãnh đạo của chính phủ Tây Phương gặp mặt Đức Đạt Lai Lạc Ma người lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng. Phát ngôn viên Trung Cộng, Liu Jianchao đã tuyên bố các cuộc gặp mặt Đức Đạt Lai Lạc Ma là "vi phạm nghiêm trọng những nguyên tắc chủ yếu của quan hệ quốc tế, làm tổn thương tình cảm của nhân dân Trung Quốc và cực kỳ xâm phạm vào công chuyện nội bộ của Trung Quốc." 

Trong hai tuần lễ cuối tháng 6 năm 2007 tập đoàn lãnh đạo Trung Cộng đã thấy rất khó chịu khi Thủ Tướng Úc John Howard gặp mặt Đức Đạt Lai Lạc Ma tại Canberra. Ngoại Trưởng Úc Alexander Downer nói Đức Đạt Lai Lạc Ma được nhân dân Úc tiếp đón như một lãnh tụ tôn giáo rất được kính trọng. Ông Downer nói thêm Trung Cộng nên tôn trọng nền dân chủ tự do của nước Úc, và tuyên bố Đức Đạt Lai Lạc Ma lúc nào cũng được hoan nghênh tới thăm nước Úc. Rồi tới tháng 9 vừa qua, bà Thủ Tướng Đức Angela Merkel đã tiếp đón Đức Đạt Lai Lạc Ma tại thủ đô nước Đức. Để bày tỏ sự bất mãn của mình, tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng đã huỷ bỏ cuộc hội nghị Nhân Quyền hàng năm với nước Đức.

Và Trung Cộng còn có thái độ hung hăng côn đồ để phản đối việc TT Bush tham dự buổi lễ trao Huy Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ cho Đức Đạt Lai Lạc Ma, Trung Cộng ra lệnh rút lui đoàn đại biểu của họ ra khỏi cuộc đàm phán trong tháng 10 năm 2007 về vấn đề nguyên tử của Iran. Chúng ta đều hiểu rõ là tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng đã ra thủ đoạn lợi dụng ngay sự bất mãn của chính mình đối với Đức Đạt Lai Lạc Ma để tránh mặt trong những cuộc hội nghị mà chính Trung Cộng cũng không muốn tham dự, cụ thể như cuộc hội nghị Nhân Quyền hàng năm với nước Đức. 

Riêng TT Bush trong cuộc họp báo ở Toà Bạch Ốc sáng ngày 17/10/2007 trước khi đi qua Toà Nhà Quốc Hội để tham dự buổi lễ trao huy chương với tư cách một vị TT Hoa Kỳ đương nhiệm lần đầu tiên xuất hiện với Đức Đạt Lai Lạc Ma trước công chúng, đã cho các phóng viên biết là bởi vì TT Bush luôn luôn ủng hộ sự tự do tôn giáo cũng giống như Đức Đạt Lai Lạc Ma luôn luôn ủng hộ sự tự do tôn giáo, TT Bush rất ngưỡng mộ vị lãnh tụ tôn giáo Tây Tạng này và cũng là người được giải Nobel Hoà Bình. TT Bush nói thêm "Hoa Kỳ không thể nhìn thấy hoàn cảnh của những người bị trấn áp tôn giáo mà nhắm con mắt lại hay quay lưng bỏ đi. Tôi đã trước sau như một từng nói với người Trung Quốc rằng tự do tôn giáo là lợi ích quốc gia của họ. Tôi cũng đã từng nói với họ rằng tôi nghĩ là vì lợi ích của họ để mà gặp mặt Đức Đạt Lai Lạc Ma và tôi cũng sẽ nói như vậy trong buổi lễ hôm nay tại Toà Nhà Quốc Hội. Nếu mà họ chịu ngồi xuống nói chuyện với Đức Đạt Lai Lạc Ma, họ sẽ hiểu ra ông ấy là một người của hoà bình và hoà giải." TT Bush đã kêu gọi tập đoàn lãnh đạo Trung Cộng hãy mời Đức Đạt Lai Lạc Ma tới Trung Quốc, bởi vì theo nhận xét của TT Bush là vị lãnh tụ Phật Giáo này là "một biểu tượng toàn cầu của hoà bình và lòng khoan dung, một người trông nom chăm sóc tín ngưỡng, và một người giữ gìn ngọn lửa hi vọng cho nhân dân của ông ấy." 
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ từ lâu đã ủng hộ Đức Đạt Lai Lạc Ma và thường xuyên chỉ trích tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng về những vi phạm nhân quyền, và cho rằng Trung Cộng đã làm ngơ trước những tội ác diệt chủng tại Sudan và tập đoàn quân phiệt Miến Điện dùng bạo lực trấn áp đẫm máu những Tăng Sĩ và Thanh Niên Học Sinh Sinh Viên Phật Tử biểu tình ôn hoà đòi hỏi dân chủ tự do tại Rangoon, chỉ vì những quyền lợi mậu dịch của Trung Cộng với những người cầm quyền tại các nước này. 

Quốc Hội Hoa Kỳ đã tuyên dương công trạng của Đức Đạt Lai Lạc Ma "về đức tính kiên trì và có nhiều cống hiến xuất sắc cho hoà bình, bất bạo động, nhân quyền, và sự hiểu biết tôn giáo. Đức Đạt Lai Lạc Ma được công nhận và tín nhiệm ở nước Mỹ cũng như ở trên toàn thế giới là một lãnh tụ tôn giáo và một biểu tượng đạo đức cao quí. Đức Đạt Lai Lạc Ma đã kiên trì đấu tranh cho dân chủ, tự do, và di sản truyền thống văn hoá Tây Tạng ". TT Bush đã đích thân trao tận tay Đức Đạt Lai Lạc Ma tấm Huy Chương Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ, một huy chương dân sự cao quí nhất của nước Mỹ. 
Những chuyện vừa kể trên thuộc về nhiệm kỳ của TT Bush vào năm 2007. Những chuyện xảy ra gần đây vào năm 2010 và vào ngày thứ bảy 16/7/2011 trong nhiệm kỳ TT Obama. Đức Đạt Lai Lạc Ma đã từng gặp TT Obama hồi năm ngoái 2010 tại Phòng Thuyết Trình Tình Hình Của Tổng Thống Mỹ và hai người đã kín đáo nói chuyện với nhau về các vấn đề mà cả hai người cùng quan tâm. Cuộc nói chuyện được cho là kín đáo bởi vì không có mặt của giới truyền thông báo chí Mỹ. Cuộc nói chuyện kín đáo này đã khiến cho Trung Cộng tức giận tới mức lộn gan lên đầu, và không ngớt đã kích TT Obama. Năm nay vào ngày thứ bảy 16/7/2011 một lần nữa TT Obama lại tiếp Đức Đạt Lai Lạc Ma tại Phòng Thuyết Trình Tình Hình Của Tổng Thống Mỹ. Sở Dĩ TT Obama đã không tiếp Đức Đạt Lai Lạc Ma tại Phòng Bầu Dục của Toà Bạch Ốc vì Ngài không phải là một vị nguyên thủ quốc gia, mà Ngài chỉ là một vị lãnh đạo tôn giáo, một lãnh tụ tinh thần của nhân dân Tây Tạng. Cuộc nói chuyện giữa TT Obama và Đức Đạt Lai Lạc Ma cũng được giữ kín vì không có mặt của giới truyền thông báo chí Mỹ. Và lần này cũng đã khiến cho Trung Cộng thêm một lần nữa quá đỗi tức giận khiến cho mất khôn ngoan mà đe doạ Mỹ một cách ngu xuẩn là, “nếu Mỹ tiếp tục ủng hộ Đức Đạt Lai Lạc Ma, thì Trung Cộng sẽ tiếp xúc với tổ chức khủng bố Al Qeda”. Đúng là một lời đe doạ vô cùng ngu xuẩn!!!!

Tóm lại tập đoàn XHCN bành trướng bá quyền Trung Cộng đã đang u mê ám chướng vì tư lợi có được trong mậu dịch với những tập đoàn độc tài diệt chủng như Sudan, Miến Điện, và bây giờ Trung Cộng còn quá độ ngu xuẩn khi đe doạ là “sẽ tiếp xúc với bọn khủng bố Al Qeda”, thật rõ ràng là Trung Cộng đã đang điên cuồng chống lại những giá trị của đạo đức và lương tâm nhân loại./.

Thuỷ-Triều
16/7/2011