Thứ Năm, 13 tháng 9, 2018

HỒ NGỌC ĐẠI SAI TỪ CĂN BẢN CỦA TIẾNG VIỆT


HỒ NGỌC ĐẠI SAI TỪ CĂN BẢN CỦA TIẾNG VIỆT


Nguyễn Thành-Trí, Sài Gòn 13/9/2018
Rất đáng tiếc chúng tôi phải nói ngay ở đây là Hồ Ngọc Đại đã sai từ đầu, sai từ căn bản của tiếng Việt. Hồ Ngọc Đại đã quên hay đã không biết rằng TIẾNG VIỆT LÀ TIẾNG ĐƠN ÂM.  Tất cả người Việt mỗi ngày nói tiếng Việt có lẽ biết chắc rằng tiếng Việt của họ là tiếng đơn âm, mỗi chữ mỗi tiếng chỉ có một âm, một vần hay âm tiết. Tiếng Việt không giống với tiếng Anh, tiếng Pháp là loại tiếng nói ĐA ÂM, mỗi chữ mỗi tiếng có nhiều âm, nhiều vần.  Như vậy, tiếng Việt không cần phải sử dụng các ô vuông, hình tròn, hoặc hình tam giácm phương pháp đếm số vần hay số âm tiết, gọi là counting syllables. Thí dụ cụ thể “Tháp mười đẹp nhất bông sen” được tách ra thành sáu tiếng rời. Tương đương với chữ Anh “Internationalism” được tách ra đếm thành sáu vần hay sáu âm tiết là (in-ter-na-tion-al-lism). Tiếng Việt đơn âm cả một câu “Tháp Mười đẹp nhất bông sen” bằng với tiếng Anh đa âm chỉ một chữ với sáu âm tiết hay sáu vần “Internationalism”.
Tiếng Việt có đặc tính cấu trúc ghép chữ hay ghép tiếng. Trong cách nói và cách viết người Việt ghép một chữ với một số chữ khác nhau để làm nên những chữ mới. Thí dụ, chữ “như” ghép với những chữ khác để thành những chữ mới có ý nghĩa khác nhau là “như ai”, “như chơi”, như hệt”, “như in”, “như không”, “như là”, “như nguyện”, “như quả”, “như sau”, “như thế”, “như thể”, “như thường”, “như trên”, “như tuồng”, “như vầy”, “như vậy”, “như ý”; nếu người Việt cắt xén bớt chữ thì chúng ta không biết được chữ “như” là “như nào?”
Hồ Ngọc Đại đưa ra cách dạy các học sinh mẫu giáo và lớp 1 bằng cách “từ âm đến chữ”; như vậy, rất khác với cách dạy hiện tại là “từ chữ đến âm”.  Cách dạy “từ âm đến chữ” có trở ngại ở một số chữ “đồng âm dị nghĩa” phát âm của chúng giống nhau, nhưng có những ý nghĩa khác nhau. Thí dụ, chữ “ba” cùng một âm tiết, nhưng có những nghĩa khác nhau như “cha, bố, tên gọi, thứ bậc, con số”.  Cũng như chữ “hồ” cùng cách phát âm giống nhau, nhưng có những nghĩa khác nhau là “bác Hồ, họ Hồ, ao hồ, bình đựng rượu, hồ để dán, bã hồ xây dựng, cổ áo có hồ cho cứng, chồn cáo, tiền xâu các con bạc phải trả cho chủ xòng bạc. Có rất nhiều thí dụ cụ thể, nhưng chỉ nêu ra đây vài thí dụ tiêu biểu thôi. Để khắc phục trở ngại trong cách dạy tiếng Việt “từ âm đến chữ”, từ rất lâu hệ thống giáo dục Việt Nam vẫn giữ vững cách dạy tiếng Việt “từ chữ đến âm”. Học sinh có khả năng nhận dạng mặt chữ trước khi nghe và biết âm thanh của chữ đó ra sao.  
Hồ Ngọc Đại lập luận rằng “Mỗi lần phát âm chỉ được một tiếng, thay mỗi tiếng bằng một mô hình để học sinh biết rằng mỗi tiếng là một khối nguyên và được tách ra từ trong lời nói.” Tất nhiên “mỗi lần phát âm chỉ được một tiếng, vì tiếng Việt rõ ràng là tiếng ĐƠN ÂM. Tại sao Hồ Ngọc Đại thay mỗi tiếng bằng một mô hình vuông, tròn, tam giác, v.v... mà không thay vào hình vẽ minh hoạ. Thí dụ, Tháp Mười minh hoạ bằng bản đồ khu vực Tháp Mười; Sen minh hoạ bằng bông sen; Hồ minh hoạ Hồ Chí Minh, hay ao hồ, chồn cáo, v.v... Hơn nữa, có quá ít các mô hình vuông, tròn, tam giác không đủ để thể hiện được hết rất nhiều chữ Việt. Các học sinh nhỏ sẽ thắc mắc tại sao cùng một hình vuông, tròn, tam giác mà nghe những tiếng khác nhau?
Vẫn căn cứ theo Hồ Ngọc Đại, bài học đầu tiên là học “TIẾNG.  Học sinh mẫu giáo và lớp 1 lần đầu tiên biết được và biết cụ thể dưới dạng một khái niệm khoa học “tiếng là một khối âm toàn vẹn được tách ra từ chuỗi lời nói” thành từng tiếng rời và mô hình hóa dưới dạng các vật thay thế. Từ lập luận này, tất cả người Việt chúng ta nhận biết rằng Hồ Ngọc Đại giảo biện. Tiếng Việt là tiếng Đơn Âm, mỗi một tiếng có một vần hay âm tiết riêng biệt và đầy đủ. Từ rất lâu hơn một trăm năm Tiếng Việt đã không bị vỡ vụn để Hồ Ngọc Đại lên giọng trí thức rởm hay dởm nói rằng “tiếng là một khối âm toàn vẹn”. Hồ Ngọc Đại còn nói “được tách ra từ chuỗi lời nói”, có nghĩa là được tách ra từ một câu hay nhiều câu. Quả thật, Hồ Ngọc Đại đã không biết tiếng Việt có những câu rất ngắn và có một tiếng hay một chữ.  Thí dụ, câu mệnh lệnh “Đi”, “Đừng”; câu xác định “Rồi”, “Được”; câu phủ định “Chưa”, “Không”; câu nghi vấn “Hả?”, “Sao?” Với vài ba câu thí dụ này, Hồ Ngọc Đại lấy đâu ra nhiều “tiếng” để “tách ra từ một chuỗi lời nói”
Với học sinh mẫu giáo và lớp 1 người Việt, vì tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ nên chúng nói tiếng Việt đúng một cách tự nhiên. Chúng biết nói đúng tiếng Việt trước khi học biết các mặt chữ cái, cũng như các nguyên âm, nguyên âm kép, và các phụ âm. Khi giảng dạy bảng chữ cái tiếng Việt, các thầy cô giáo sẽ nói những chữ nào là nguyên âm và những chữ nào là phụ âm. Đến khi học ráp vần, chúng sẽ biết chính xác chữ cái, hay âm vị nào là nguyên âm hay phụ âm. Trái lại, Hồ Ngọc Đại đã rất rườm rà khi nói khoa trương rằng “học sinh được học cách lấy các âm từ trong tiếng với các thao tác phân tích tiếng thành các đơn vị ngữ âm nhỏ nhất là âm vị.  Thí dụ, tiếng Ba: b - a => ba
Thật tức cười khi nghe Hồ Ngọc Đại giảo biện rằng “học sinh lại được tiếp tục rút ra các khái niệm khoa học từ các thao tác như phát âm, phân tích bằng tay, bằng miệng, nhận xét luồng hơi khi phát âm để nhận ra đâu là nguyên âm, đâu là phụ âm” Quả thật, Hồ Ngọc Đại đã quên rằng các học sinh mẫu giáo và lớp 1 này là người Việt nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, nên khi chúng phát âm không cần phải múa tay, múa chân, và một cách tự  nhiên chúng không phải vặn môi, bẻ lưỡi để nhận xét luồng hơi thở ra khi phát âm là âm vị nguyên âm hay phụ âm. Rõ ràng Hồ Ngọc Đại còn đi luôn một hơi quá trớn.  Hồ Ngọc Đại nói khoa trương thêm “đồng thời hiểu một cách cụ thể vì sao nó là nguyên âm và vì sao nó lại là phụ âm. Sau đó học cách ghi lại các âm đó bằng các kí hiệu.  Ký Hiệu mà Hồ Ngọc Đại đề cập đến là Chữ Cái mà bây giờ gọi là Con Chữ. Người ta không nói Chữ Cái là Ký Hiệu. Người ta nói Ký Hiệu khi đề cập tới những dấu Ký Hiệu Phiên Âm hay dấu Ký Âm.
Với mục đích cho người nước ngoài tự học giỏi tiếng Việt và phát âm đúng chuẩn tiếng Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam, vào năm 2005 đã có xuất bản quyển sách TIẾNG VIỆT DỄ HIỂU CHO QUÍ VỊ – SIMPLE VIETNAMESE FOR YOU.  Trong cuốn sách này có một hệ thống dấu Ký Hiệu Phiên Âm tiếng Việt được sử dụng theo hệ thống dấu ký âm quốc tế của Hiệp Hội Ngữ Âm Quốc Tế – International Phonetic Association IPA. Bằng một hệ thống Dấu Ký Âm Quốc Tế – International Phonetic Alphabet rất hoàn chỉnh. Tiếng Việt trong cuốn sách Simple Vietnamese For You đã được đưa lên ngang hàng với tiếng Anh, tiếng Pháp.  Sau mười ba năm được bán trên khắp thế giới, cuốn sách này vẫn còn bán trên mạng Amazon theo Link :
Theo chương trình dạy tiếng Việt của Hồ Ngọc Đại, hai tuần lễ đầu vào học “thầy cô giáo cho một câu thơ, một câu ca dao nào đó rồi hướng dẫn các em học thuộc lòng theo 4 mức độ: to, nhỏ, nhẩm, thầm để các em khắc sâu hơn lời nói để tiện tách ra thành từng tiếng rời nhau.  Hướng dẫn để học sinh học thuộc lòng là phương cách Học Vẹt.  Thầy cô giáo và học sinh đã phí thời gian hai tuần lễ làm việc vô ích; trong khi đó nếu học sinh được học bảng chữ cái tiếng Việt thì chúng sẽ biết chính xác chữ cái nào là nguyên âm, chữ cái nào là phụ âm.  Cái độc nhất vô nhị nhưng độc hại và vô duyên của Hồ Ngọc Đại là yêu cầu thầy cô giáo dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh nhỏ mới học lớp vỡ lòng cùng tiếng mẹ đẻ phải “hướng dẫn các em học thuộc lòng theo 4 mức độ: to, nhỏ, nhẩm, thầm để các em khắc sâu hơn lời nói Đúng là chưa có thời kỳ nào thầy cô giáo lớp mẫu giáo và lớp 1 ở Việt Nam bị hành hạ khổ sở như vào thời kỳ này. Đúng là chưa có một nước nào dạy tiếng mẹ đẻ cho con cháu của mình lại rất hài hước “to, nhỏ, nhẩm, thầm” như Hồ Ngọc Đại vậy.  Ở đây xin nhắc lại rằng các em học sinh nhỏ tự nhiên biết nói tiếng Việt mẹ đẻ của chúng trước khi đi học lớp mẫu giáo và lớp 1.
Phương pháp dạy và học một ngôn ngữ, một tiếng nói phải giản dị, dễ hiểu. Ngược lại, thật sự Hồ Ngọc Đại đã bày ra nhiều trò làm cho việc dạy và học tiếng Việt trở nên rườm rà, phức tạp ngay từ bước đầu.  Bởi vì “Sau phần học TIẾNG mới được tìm hiểu cấu trúc ngữ âm, vần, luật chính tả, nguyên âm đôi và phần cuối là luyện tập tổng hợp”,
Có lẽ khi soạn chương trình dạy và học Tiếng Việt 1 Công Nghệ Giáo Dục, Hồ Ngọc Đại đã không tự đặt mình vào vị trí của các em học sinh nhỏ học mẫu giáo và lớp 1. Trước hết, trong quá trình phát triển kiến thức của trẻ em, các em học sinh nhỏ tiếp thu sự hiểu biết trực tiếp bằng hình ảnh và liên kết hình ảnh với ý nghĩa. Hồ Ngọc Đại đã dùng hình tròn, hình vuông, hình tam giác để mô hình hoá rất nhiều tiếng, nhiều chữ khác nhau có ý nghĩa khác nhau; như vây Hồ Ngọc Đại không đạt mục đích là thể hiện được chính xác những tiếng, những chữ mà hình tròn, hình vuông, hình tam giác được dùng đề thể hiện chúng. Tại sao không dùng những hình ảnh minh hoạ? Những hình ảnh minh hoạ sẽ giúp cho các em học sinh nhỏ vui mắt, vui miệng khi được thầy cô giáo nói lên rồi các em học sinh nhỏ lặp lại, và sẽ ghi nhớ ngay khi liên kết chúng với ý nghĩa thực tế của các đồ vật, sự việc
Trên thực tế thật đáng tiếc cho Hồ Ngọc Đại đã cóp nhặt, bắt chước người khác, nhưng làm không đúng mục đích và yêu cầu. Nếu Hồ Ngọc Đại đã có mục đích và yêu cầu là âm mưu PHÁ  HOẠI TIẾNG VIỆT, thì việc làm phá hoại đó phải để cho toàn thể người Việt ở khắp mọi nơi xét xử.  Từ lâu trên thực tế các trường mẫu giáo và lớp 1 ở Singapore và Malaysia đã áp dụng phương pháp hình học ô vuông hoặc vòng tròn hoặc tam giác để dạy các em học sinh nhỏ tách ra đếm số vần hay số âm tiết của một chữ có nhiều âm, nhiều vần. Tuy nhiên, trẻ em lớp mẫu giáo và lớp 1 ở Singapore và Malaysia học tiếng Anh Đa Âm nhiều vần nhiều âm tiết; chúng rõ ràng không học tiếng Việt Đơn Âm một chữ một âm.
Các thứ tiếng như tiếng Anh có nhiều vần hay âm tiết mới cần phát âm đúng trọng âm của nó, còn tiếng Việt đơn âm mỗi chữ có dấu giọng riêng biệt của nó với một ý nghĩa khác nhau, nên không cần phát âm theo trọng âm.
Tóm lại, Hồ Ngọc Đại đã SAI TỪ CĂN BẢN CỦA TIẾNG VIỆT. Thật đáng tiếc./.
Nguyễn Thành-Trí, Sài Gòn 13/9/2018



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét